Vài lời nói trước: Người
viết
về câu chuyện này may mắn là bạn của 3 người trong nhóm
vận động dựng cột cờ, nên đã được biết khá rõ ràng. Trong phạm vi giới
hạn một bài viết, người viết chỉ vắn tắt, cốt yếu nhấn mạnh về ý nghĩa
của cột cờ đầu tiên do chính người Việt Nam tị nạn dựng lên, hơn là chi
tiết chính xác sử liệu. Rất mong độc giả chia sẻ, cũng như các nhân vật
trong cuộc cảm thông bỏ qua những thiếu sót. Bài viết này được viết
riêng cho chuyên mục “Người Việt, 30 Năm Tị Nạn và Định Cư” như một đóng
góp nhỏ bé trong việc ghi lại quá trình thành hình và phát triển của
cộng đồng Việt Nam tại Little Saigon.
Năm1981, năm Con Gà, trong một bài phóng sự của tờ LA Times do một nữ phóng viên gốc Trung Hoa viết về nơi phố thị Bolsa, bà đã ví von nơi này như là một “Little bit Saigon”. Dần dà người ta bỏ đi chữ bit, “Little Saigon” định danh từ đó. Nhìn lại, 24 năm, sang năm 2005 Ất Dậu là 3 con gà. Chợt nhớ Ất Dậu 1945 ngày xưa ở Việt Nam…
Năm
1982 là năm định hình cho một phố thị Việt Nam tại quận Cam, con đường
huyết mạch chính là Bolsa Ave với khoảng 100 cửa hàng Việt Nam mọc lên
lúc bấy giờ. Tuy nhiên, chưa nhộn nhịp hẳn vì hãy còn những khoảng đất
vườn dâu, vườn cam, vườn rau
nằm rải rác hai bên đường. Một
chợ thực phẩm duy nhất là chợ Hòa Bình nằm cùng dãy với quán Café Le
Crossand D’orée.
Ít
người biết rằng, không phải con đường Bolsa khai sinh ra nơi tập trung
buôn bán, mà khởi đầu là trên con đường Wesminster, gần đến đường Golden
West đã có ngôi chợ Việt Nam, chợ Quê Hương, đầu tiên tại đấy cho mãi
đến 1982 vẫn còn, và rải rác dọc trên con đường này từ năm 1977 đến 1982
nhiều cửa hàng đã thành hình. Nhưng kể từ khi MiNi Mall (khu nhà sách
Tú Quỳnh, nhà hàng Thành Mỹ) thành hình trên đường Bolsa, rồi Nguyễn
Huệ, rồi khu nhà hàng Song Long nối tiếp, hầu hết các tiệm ở đường
Wesminster cũng lục tục dọn qua khu tập trung mới trên đường Bolsa. Chợ
Quê Hương đổi chủ rồi cũng bị chợ Hòa Bình hút hết khách nên ế ẩm và
đóng cửa, chấm dứt thời kỳ phôi thai kinh doanh trên con đường
Westminster bất hạnh.
Trong
sự thành hình của con phố Bolsa, sau 30 năm, dân Việt cư kỳ cựu ở vùng
đất này nên nhắc đến một sự việc có tầm vóc tinh thần rất lớn đối với
người Việt tị nạn sinh sống tại Little Saigon mà có lẽ theo thời gian đã
chìm vào quên lãng, những người đến Little Saigon định cư sau này có
thể cũng không nghe ai kể lại. Đó là cây cột cờ Việt nam đầu tiên được
dựng lên tại khu thương xá Nguyễn Huệ, nơi có nhà hàng Đồng Khánh và phở
Nguyễn
Huệ. Nơi đây, lá quốc kỳ Việt Nam được phép chính thức treo phất phới
trên nền trời, khẳng định và đại diện cho một dân tộc, một quốc gia, một
sắc dân tị nạn Cộng sản đến định cư trên đất nước Hoa Kỳ. Lá cờ tượng
trưng cho hồn thiêng sông núi, tiêu biểu cho một giá trị lịch sử đã được
gìn giữ và hy sinh bằng biết bao xương máu cho lá cờ ấy, lá cờ Vàng
Việt Nam biểu tượng của một dân tộc có tự do đã bị cướp đoạt. Họ hoặc
vượt thoát hoặc bị xua đuổi khỏi quê nhà và chỉ mang theo một ấn chứng
duy nhất là lá cờ của dân tộc họ, lá quốc kỳ xác định một quốc gia mà
thế giới đã công nhận.
Trước
năm 1989, là năm cộng sản Việt Nam mở cửa mời đón kiều bào về thăm quê
hương, trước đó đối với người Việt tị nạn tại hải ngoại, quê nhà chỉ còn
có trong tâm tưởng, không biết đến bao
giờ mới
trở về lại cố hương.
Năm
1984, một phóng viên tờ LA Times đăng bài phóng sự về chuyến đến thăm
Little Saigon, ông nêu lên nhận xét “Little Saigon không chỉ là một
trung tâm thương mại, đối với tôi, Little Saigon là trung tâm của quá
khứ và một lịch sử được mang theo từ Việt Nam…”
Thực
vậy, Little Saigon được xem là “thủ đô tị nạn”, một nơi có sinh hoạt
chính trị mạnh mẽ, đồng thời tập trung hầu hết các văn nhân nghệ sĩ về
đây sinh sống, đã tạo cho Little Saigon có một sắc thái đô thị đặc biệt,
thu hút không riêng du khách Việt, du khách ngoại quốc cũng tò mò tìm
đến viếng thăm nơi gọi là “Vietnamese Town”.
Trở
lại, vào cuối năm 1984, một số quân nhân đứng lên lập nhóm để vận động
với chính quyền thành phố Wesminster, xin được dựng cột cờ treo lá quốc
kỳ Việt Nam tại khu thương xá Nguyễn Huệ. Nhóm này gồm năm người:
Khoảnh
đất dựng cột cờ đã xin được của chủ phố là ông Triệu Phát. Mọi thứ được
tiến hành trong hồi hộp nôn nao nhưng bằng tinh thần của quân đội, quả
quyết, tự tin, danh dự. Tại sao hồi hộp? Đấy là khoảng thời gian tinh
thần chống cộng ở cao điểm, thành phần cộng kiều trà trộn hoạt động ngầm
trong cộng đồng Việt Nam thì luôn nằm trong bóng tối, họ theo dõi mọi
sinh hoạt của cộng đồng tị nạn. Theo thống kê của chính quyền Orange
County thời đó, mức quan tâm về tội
phạm băng đảng trong cộng đồng Việt Nam
không phải là con số nhỏ (số thống kê vào năm 1989 là 41%). Thời đó,
chuyện nổ súng thanh toán trong hàng quán, vũ trường gần như là chuyện
thường tình. Đối với quân nhân thì xem là trò trẻ con, nhưng tình huống
nổ súng bất ngờ không biết ai là ai, đáng phải đề phòng.
Khi
tin tức dựng cột cờ được công khai phổ biến thì có truyền đơn rơi, thư
hăm dọa phóng vào nhóm quân nhân khởi xướng tổ chức dựng cột cờ.
Cường cụt
đã nhiều lần được dán “note” vào kiếng xe anh với lời lẽ đại ý “Hãy bỏ ý
đồ ngu xuẩn dựng cột cờ, thời thế đã thay đổi, đã hết thời của các anh
v.v…” Vì những hăm dọa được tung ra tới tấp từ trong bóng tối như vậy,
nhóm dựng cột cờ phải lưu tâm đề phòng, một mặt vẫn tiến hành việc làm
của họ.
Ngày
18 tháng 3 năm 1989 Lễ Thượng Kỳ được tổ chức. Nhóm dựng cờ gửi thư mời
đại diện các
tổ chức
chính trị, hội đoàn, đặc biệt là các tướng lãnh, các sĩ quan cao cấp
trong quân đội hiện đang sống trong vùng hoặc lân cận. Ngày Lễ ấy có hai
vị tướng đến chứng kiến là Tướng Nguyễn Ngọc Oánh ở Fressno về và Tướng
Nguyễn Bảo Trị. Nhóm có mời được Hội Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ đến dự. Từ
San Jose, nguyên Đại Úy Không Quân Lại Thế Hùng xuống để điều hợp Lễ
Thượng Kỳ.
Đêm
trước ngày thượng kỳ, Cao Xuân Huy trải “nốp” sleeping bag dưới chân
cột cờ ngủ giữ vì cộng kiều tung thư hăm dọa sẽ ủi sập cột cờ. “Nằm đó,
nó ủi thì mình chết trước” Cao Xuân Huy nói rồi cười khẩy, tiếp “Bộ tui
để nó ủi khơi
khơi dễ dàng à! ĐM, tui hổng biết
làm gì tụi nó à?” Lữ Mộc Sinh thì nổi máu con gà điên pollo loco, thề
nặng “Tui mà không kéo lá cờ lên được thì tui chặt bàn tay tui dưới cột
cờ
rồi kéo nó lên”.
Đêm
đó, ngoài một số quân nhân tự nguyện âm thầm thức suốt đêm canh giữ,
còn có một số “anh em Bolsa”, những tay thứ thiệt, cũng ngấm ngầm lập
vòng đai, đặt điểm trong các quán gần đó để “coi thằng nào lạ mặt nhốn
nháo là hỏi giấy, ĐM, VC là tụi em thịt liền”. Rõ ràng là một đêm dài
căng thẳng. Làm sao mấy quân nhân ấy không thủ “giò gà”. Đêm rồi qua,
chỉ có mấy con mèo hoang
quậy kêu
ngoài thùng rác giấc khuya.
Sáng
ngày thượng kỳ, các quan khách, tướng lãnh đứng trên lan can lầu, trước
văn phòng Luật Sư Trần Sơn Hà nhìn xuống. An ninh toàn khu vực đã được
kín đáo trấn thủ chặt chẽ, kể cả bên kia đường, ngã tư đường. Cường cụt
ngồi xe lăn, dưới hai chân cụt, cây UZI sẵn sàng. Hai tay nghiêm trang
nâng lá quốc kỳ xếp thẳng băng vàng rực, cùng với lá quốc kỳ hoa sao Mỹ.
Quân nhân Hổ, cụt
một chân,
đẩy xe lăn cho Cường cụt hai chân. Lại Thế Hùng điều khiển nghi lễ
Thượng Kỳ. Tony Diamond kéo quốc kỳ Việt nam lên, Cường cụt kéo quốc kỳ
Mỹ lên. Theo quy định cho phép, lá quốc kỳ Mỹ phải treo cao hơn quốc kỳ
Việt Nam vì là cờ quốc gia chủ. Cường cụt lúc thượng kỳ quá xúc động,
lòng yêu nước tăng lên sao ấy, chỉ kéo cờ Hoa Kỳ bằng ngang cờ Việt Nam.
Vậy mới có chuyện.
Đám
phản chiến Mỹ bỗng xuất
hiện sau đó,
đòi cắt dây hạ cờ Việt Nam xuống vì đã dám kéo cao bằng ngang cờ Mỹ.
Nhóm đại diện Cựu Quân Nhân Mỹ bèn can thiệp. Nhóm dựng cờ phải theo
luật định, nhích lá cờ Việt Nam xuống thấp nửa lá cờ Mỹ. Tạm êm chuyện.
Cộng kiều có lẽ nhận được chỉ thị mới, bất động, không thấy cho xe đến
ủi, không thấy bắn sẻ, không pháo kích, không đặt plastic hay gài mìn
claymort, chỉ có gió xuân thoang thoảng mùi hoa trúc đào và trên cao gió
lộng, lá cờ vàng tung bay phần phật. Lần đầu tiên nơi hải ngoại, lá cờ
của hồn thiêng sông núi Việt Nam vươn mình uốn lượn như con rồng tung
mình vờn gió xuân.
Một
cụ già mù có người con trai đưa đến dự lễ, khi lắng nghe có tiếng phần
phật cờ reo, ông níu cánh tay người con hỏi: “Cờ đã kéo lên được chưa
con?” “Dạ, kéo lên xong rồi Ba”. Cụ già bật khóc nức nở, gương mặt không
còn ánh sáng đôi mắt lộ đầy xúc động mếu máo, bàn tay run run vịn chặt
vai người con trai bên cạnh, anh cũng rưng rưng theo nỗi niềm của người
cha. Cao Xuân Huy tình cờ đứng gần, chứng kiến, quay vội vào tường cho
giọt nước mắt nóng hổi của mình lăn khỏi con
mắt.
Bầu
không khí trang nghiêm long trọng ấy, khi lá Cờ Vàng Việt Nam tung bay
trên nền trời Little Saigon, ai chứng kiến mà không vui buồn lẫn lộn,
xúc động ngậm ngùi hòa lẫn hãnh diện lâng lâng. Ôi phải 10 năm, từ 1975
đến 1985, mười năm sau mới thực sự tận mắt nhìn thấy lại lá cờ oai linh
của đất nước Việt Nam tung bay cùng gió lộng. Thôi… âu cũng là niềm an
ủi lớn lao cho tâm trạng lưu vong trên đất khách quê người… cho ấm lòng
chiến sĩ….
Nhà
báo Du Miên cho biết, cột cờ Việt Nam tuy dựng lên là được sự cho phép
của City Westminster, nhưng dựng xong vẫn chưa có văn bản chính thức.
Sau khi dân Mỹ tại đây thấy cờ Việt Nam kéo lên, đã phản đối mạnh mẽ lên
cơ quan chính quyền thành phố, họ đòi hạ xuống, khiến City lúng túng.
Bấy giờ ông Trần Duy Hòe (thuộc Lực Lượng Đặc Biệt) phải xông xáo ra vào
city đòi hỏi phải có văn bản cho phép chính thức cho cây cột cờ đã
thành hình. Cuối cùng,
một nghị quyết của chính
quyền thành phố Westminster được ban hành, chấp nhận trên pháp lý về sự
hiện hữu hợp lý của cây cột cờ. Đó là công lao của Ông Hòe và một số
người thầm lặng cùng sát cánh với ông.
Vài
hôm sau ngày thượng kỳ, dây cột cờ bằng nylon bị cắt đứt, lá cờ chao
đảo chới với như kẻ sắp chết đuối kêu cứu. Thay dây mới. Lại bị cắt đứt.
Kỳ này chúng ông thay bằng dây thép, siết bù lon lại, xem cộng kiều các
con làm sao.
Lữ Mộc Sinh tập họp anh em Bolsa, giao phó: “Tụi anh đã làm xong việc
dựng cột và treo cờ. Đến phiên tụi em giữ cờ”. Như vậy, lá quốc kỳ Việt
Nam lành lặn tung bay cũng nhờ có một phần góp tay canh giữ của “anh em
Bolsa” thời ấy.
Những
ngày kế tiếp sau ngày thượng kỳ, dưới chân cột cờ liên tục được nhiều
người mang đến những chậu hoa tươi bày kín khắp cả chung quanh, bày tỏ
niềm vui và lòng yêu kính lá
quốc kỳ.
Ngày 30 tháng 4 năm 1985, sau hơn một tháng dựng cờ được tổ chức “Đêm
Không Ngủ” dưới ngọn cờ vàng. Đêm không ngủ đầu tiên dưới ngọn cờ quê
hương thật là đầy ý nghĩa, thật đậm đà tình người, thật vui và cũng siết
ngậm ngùi khi thả hồn nhớ nghĩ về quê nhà, bên ấy còn bao người thân
ngóng chờ mòn mỏi, bên các trại tị nạn thì khổ cực, kêu cứu tuyệt vọng…
Thêm
một chi tiết. Nơi khoảnh đất dành
cho cột cờ
có ngọn đèn đường đứng sát bên ngoài, nên nhìn vào cột cờ bị che khuất.
Do hồn thiêng sông núi xui khiến sao đó, xuất hiện anh Diệp Thanh Tùng,
tự nguyện chờ nửa khuya, mang xe cần cẩu lớn đến, cắt dây điện ra, dời
cột đèn vào sâu trong sân, nối dây điện lại cho đèn cháy bình thường.
Hỏi ra, anh là nhân viên đang làm trong Ty Điện Lực, thấy cột đèn che
cột cờ coi chướng mắt không chịu nổi, bèn nổi máu anh hùng, bứng cột đèn
đi chỗ khác chơi. Làm xong việc, lặng lẽ ra đi. Ai tin chuyện này có
thể xảy ra, vậy mà đã xảy ra, mới thấy cây cột cờ linh thiêng thật.
Từ
1985-1988, 3 năm liền tổ chức đêm 30 tháng 4 tại khuôn viên nhỏ hẹp nơi
chiếc cột cờ phất phới lá cờ vàng. Ba năm ấy, một quân nhân Thủy Quân
Lục Chiến là Huỳnh Minh Châu, người cao lớn, tính ít nói và hiền lành,
tự nguyện làm người thay cờ, giữ cho lá cờ luôn được lành lặn và rực rỡ.
Tiếp tục lặng lẽ bao năm trời đến ngày hôm nay, không biết đã có bao
nhiêu tấm lòng âm thầm nối tiếp duy trì gìn giữ để từng ngày từng đêm
trên bầu trời Bolsa vẫn không vắng bóng lá cờ. Ai biết? Ai
thương?
Sau
khi tin tức lan truyền về cột cờ đầu tiên ở hải ngoại, có một vị là
nhân viên của sứ quán Việt Nam ngày trước ở San Francisco, đã liên lạc
với nhóm dựng cờ để mang lá quốc kỳ Việt Nam treo ở tòa sứ quán mà ông
đang gìn giữ cẩn thận, mang đến bàn giao cho nhóm để treo lá quốc kỳ ấy
lên. Buổi lễ được tổ chức thật cảm động và trang nghiêm ở trung tâm sinh
hoạt Nguyễn Khoa Nam. Ông Trần Duy Hòe đại diện đứng ra nhận lá quốc
kỳ.
Sau
năm 1989, do Cộng Sản Việt Nam mở cửa, Việt Nam dần dà không còn là một
quê hương xa vời trong tâm tưởng như những năm về trước. Vết thương
lòng đã nguôi ngoai, dấu chân của lịch sử cát bụi đã lấp bằng. Những lá
cờ Việt Nam được dựng treo khắp nơi ở hải ngoại khắp thế giới, người
Việt ở hải ngoại nhìn những lá cờ treo quá quen mắt. Nhưng nếu ai là
người chứng kiến phút giây lịch sử khi lá cờ Việt Nam lần đầu tiên được
kéo lên tung bay trên bầu trời tị nạn nơi xứ
người, mới cảm nhận được trọn vẹn sự linh thiêng, tôn quý đối với một
lá cờ được giữ gìn bằng biết bao xương máu của những vị anh hùng vị quốc
vong thân.
Sau
năm 2000, tôi tưởng có lẽ chính mình cũng đã quên đi. Bỗng một hôm,
nhìn thấy hàng ngàn người Việt Nam tị nạn ngồi biểu tình trong đêm lạnh,
khi cùng nhịp, phất lên lá cờ vàng nhỏ bé trong tay, hàng ngàn lá cờ
nhịp nhàng đồng phất lên theo những
cánh tay ấy
đã khiến tôi nghẹn cứng cả lồng ngực. Sức mạnh khủng khiếp của màu cờ
đánh thức một cái gì bừng dậy trong tôi. Tôi không hiểu là cái gì, nhưng
tôi biết chắc, hồn thiêng sông núi Việt Nam là một điều có thật, đừng
quên.
Đến
cuối năm 2004, sau gần 30 năm từ mốc lịch sử 1975, lá cờ hồn thiêng
sông núi, lá quốc kỳ Việt Nam màu vàng ba sọc đỏ, riêng tại Hoa Kỳ, đã
được hầu hết các tiểu bang trên nước
Mỹ công
nhận là lá cờ của người dân Việt Nam Tự Do, không chấp nhận chủ nghĩa
cộng sản, đã vượt thoát ra đi, đi tìm tự do và định cư trên khắp thế
giới. Lòng đấu tranh kiên quyết gìn giữ màu cờ dân tộc đã được đáp đền,
đã được hồn thiêng sông núi Việt Nam, anh linh của anh hùng tử sĩ hy
sinh dưới lá quốc kỳ tự do ấy phù trợ cho tấm lòng son sắt của dân tộc.
Khi
nào bạn có dịp đi ngang qua cây cột cờ đầu
tiên dựng
trên con phố Bolsa nơi Little Saigon, xin bạn gửi lên lá cờ vàng tung
bay ấy một cái nhìn trìu mến. Chính lá cờ Vàng ấy mới thực sự làm ấn
chứng đầu tiên cho cái thị tứ mà về sau, vào ngày 17 tháng 6 năm 1988 đã
được chính quyền sở tại công nhận chính danh “Little Saigon” (bảng
hướng dẫn exit vào Little Saigon đã được dựng trên freeway 22 trước khi
vào exit Magnolia). vì nơi đây, đã trở thành một thành phố được mệnh
danh “Thủ Đô Người Việt Nam Tị Nạn”.
Lê Giang Trần
No comments:
Post a Comment