Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (gọi tắt là hiệp định Genève)gồm có 6 chương, 47 điều, trong đó các điều chính như sau:
Việt
Nam được chia thành hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông
Bến Hải, theo dòng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Cửa
sông Bến Hải tức Cửa Tùng, thuộc tỉnh Quảng Trị. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến
17 nên người ta nói nước Việt Nam được chia hai ở vĩ tuyến 17.
Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam Viêt
Nam. Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số
mỗi bên, để làm “khu đệm”, có hiệu lực từ ngày 14-8-1954. Thời hạn tối
đa để hai bên rút quân là 300 ngày kể từ ngày hiệp định có hiệu lực.
Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 27-7 ở Bắc Việt, 1-8 ở Trung
Việt và 11-8 ở Nam Việt. Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của mình
và tự tổ chức nền hành chánh riêng. Cấm phá hủy trước khi rút lui. Không
được trả thù hay ngược đãi những người đã hợp tác với phía đối phương.
Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu
thuộc phía bên kia. Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập thêm căn cứ
quân sự mới. Tù binh và thường dân bị giữ, được phóng thích trong thời
hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn. Sự giám sát và kiểm soát thi
hành hiệp định sẽ giao cho một Uỷ ban Quốc tế. Thời hạn rút quân riêng
cho từng khu vực kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100
ngày), Hải Phòng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp
Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt
(300 ngày).
Ai vi phạm hiệp định Genève
Hiệp
định này ký kết ngày 20-7-1954 chỉ là một hiệp định có tính cách thuần
tuý quân sự. Cũng giống như hiệp ước đình chiến Bàn Môn Điếm ngày
27-7-1953 ở Triều Tiên, hiệp định không phải là một hòa ước, và không
đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.
Chính
phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm lo
tập trung và rút toàn bộ lực lượng của mình về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng
thời hạn và đúng theo quy định của hiệp định. Điều nầy chẳng những báo
chí lúc bấy giờ đã trình bày, mà cho đến nay, chẳng có tài liệu sách vở
nào cho thấy là chính phủ QGVN đã gài người hay lưu quân ở lại đất Bắc.
Như thế, trong việc thi hành hiệp định Genève, chính phủ QGVN đã thi
hành đúng đắn hiệp định.
Trái
lại, nhà nước VNDCCH do Việt Minh cộng sản cầm đầu đã không tuân hành
quy định trong hiệp định Genève. Sau đây là hai bằng chứng cụ thể do
phía cộng sản đưa ra về sau:
Thứ
nhứt, tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi),
giữa thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và chủ tịch nhà nước VNDCCH Hồ Chí
Minh từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, tức trước khi hiệp định Genève được ký
kết, Hồ Chí Minh đã đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công
tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi
dậy. Số ở lại có thể đến 10,000 người. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ
Nhật-Nội-Ngõa hội nghị (Chu Ân Lai và hội nghị Genève) Bắc Kinh: Trung
Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là
Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 “Hội nghị Liễu
Châu then chốt”. Nguồn: Internet).
Thứ
hai, Việt Minh cộng sản chẳng những chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán
bộ, đảng viên ở lại Nam Việt Nam, mà còn gài những cán bộ lãnh đạo cao
cấp ở lại miền Nam như Lê Duẫn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng
Chiếm… (Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, New York: Osinbook,
2012, tt. 271-273), để chỉ huy Trung ương cục miền Nam (TƯCMN). Trung
ương cục miền Nam được thành lập ngày 20-1-1951, chỉ huy toàn bộ hệ
thống cộng sản ở Nam Việt Nam (Tháng 10-1954, TƯCMN đổi thành Xứ ủy Nam
Bộ. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TƯĐ (khóa III) đảng LĐ (ngày
23-1-1961) ở Hà Nội, Xứ ủy Nam Bộ trở lại thành TƯCMN.)
Hai
tài liệu trên đây do phía cộng sản Việt Nam tiết lộ, chứ không phải tài
liệu tuyên truyền của NVN hay Tây Phương. Như vậy, rõ ràng trong khi
chính phủ QGVN tôn trọng hiệp định Genève, nhà nước VNDCCH đã có kế
hoạch vi phạm hiệp định đã ký kết.
Cộng sản đòi hỏi điều không có
Hiệp
định Genève chỉ là một hiệp định đình chiến, thuần túy quân sự và không
đưa ra một giải pháp chính trị. Thế mà ngày 19-7-1955, thủ tướng BVN là
Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng Nam Việt Nam (NVN) là Ngô Đình Diệm
yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, như đã quy
định trong hiệp định Genève để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất
đất nước. (John S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: The
Maillard Press, 1989, tr. 17.) Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm
bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, vì cho 1955 rằng chính phủ QGVN tức
NVM không ký các văn kiện Genève nên không bị ràng buộc phải thi hành.
Tuy
sau đó chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), thay chính phủ QGVN, nhiều
lần từ chối, Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các
ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958, để chứng tỏ BVN quan tâm đến
chuyện thống nhứt đất nước, và nhằm tuyên truyền với các nước trên thế
giới. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị
của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958.
Một
điều lạ lùng là trong hiệp định Genève, không có một điều khoản nào nói
đến việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước mà nhà cầm quyền
CS cứ nhất định đòi hỏi tổ chức tổng tuyển cử theo hiệp định Genève.
Thật ra, sau khi hiệp định về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, ở Lào và ở
Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genève họp tiếp vào
ngày 21-7-1954, nhằm bàn thảo bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị
Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố gồm
13 điều; quan trọng nhất là điều 7, ghi rằng: Hội nghị tuyên bố rằng đối
với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở
tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải
làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi
những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu
kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân
dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức
vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu
những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong
Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có
thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về
vấn đề đó (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài
Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53. Xem bản Pháp văn của tuyên ngôn nầy, vào: google.com.fr., chữ khóa: Déclaration finale de la Conférence de Genève en 1954.)
Chủ
tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn,
thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge
trả lời miệng rằng “đồng ý”. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5,
Paris: Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642.) Tất cả bảy phái đoàn đều trả lời
miệng chứ không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản
tuyên bố không có chữ ký. Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của
những phái đoàn, có tính cách dự kiến một cuộc tổng tuyển cử trong tương
lai ở Việt Nam, không có chữ ký, thì chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn
chứ không có tính cách cưỡng hành. Một văn kiện quốc tế không có chữ ký
thì làm sao có thể bắt buộc phải thi hành? Hơn nữa, những hiệp định với
đầy đủ chữ ký mà còn bị CSVN vi phạm trắng trợn, huống gì là bản tuyên
bố không chữ ký.
Phái
đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào hiệp định Genève ngày
20-7-1954 và cũng không đồng ý bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị
Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954. Hai
phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để
minh định lập trường của chính phủ mình.
Cộng sản bịa đặt lý do để tấn công QGVN
Cộng
sản BVN vi phạm hiệp định Genève, nhưng lại bịa đặt ra hai lý do để tấn
công NVN: 1) Nam Việt Nam không tôn trọng hiệp định về việc tổ chức
tổng tuyển cử thống nhất đất nước. 2) Nam Việt Nam là tay sai đế quốc Mỹ
nên BVN quyết định chống Mỹ cứu nước.
Về
lý do thứ nhứt, như trên đã viết, hiệp định Genève không đề cập đến
giải pháp chính trị tương lai cho Việt Giải pháp tổng tuyển cử nằm trong
điều 7 của bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề
lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố nầy lại không có chữ ký của
bất cứ phái đoàn nào, nên chỉ có tính cách khuyến cáo chứ không có tính
cách bắt buộc phải thi hành.
Lý
do thứ hai hoàn toàn có tính cách tưởng tượng vì sau năm 1954, Hoa Kỳ
viện trợ kinh tế cho Nam Việt Nam tái thiết đất nước, ổn định cuộc sống
của dân chúng sau chiến tranh, chứ Hoa Kỳ không viện trợ quân sự, chưa
đem quân vào Việt Nam.
Nếu
để cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì
đến một lúc nào đó chắc chắn VNCH với nền kinh tế tự do sẽ phát triển và
vượt xa VNDCCH với nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản. Đó
chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng. Sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho NVN
chẳng những khiến BVN rất quan ngại, mà sự hiện diện của người Hoa Kỳ
tại NVN còn khiến cho cả Trung Cộng chẳng yên tâm.
Lúc
đó, Hoa Kỳ đang giúp Trung Hoa Dân Quốc bảo vệ Đài Loan chống Trung
Cộng. Hoa Kỳ còn giúp bảo vệ Nam Triều Tiên và Nhật Bản, nên Trung Cộng
mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ chẳng những tại Đông Á, mà còn chống Hoa Kỳ
khắp nơi trên thế giới, hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay người Hoa Kỳ
lại có mặt ở NVN, gần sát với Trung Cộng, nên Trung Cộng rất quan ngại
cho an ninh phía nam của chính Trung Cộng.
Hơn
nữa, cho đến năm 1960 là năm BVN khởi động chiến tranh tấn công NVN,
Hoa Kỳ chỉ viện trợ kinh tế cho NVN chứ Hoa Kỳ không đem quân vào NVN.
Chỉ sau khi BVN tấn công và uy hiếp mạnh mẽ NVN, Hoa Kỳ mới đem quân vào
giúp NVN năm 1965. Vì vậy, chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” năm 1960 là
hoàn toàn bịa đặt. Như thế, BVN cố tình đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu
nước” vừa để kêu gọi lòng yêu nước của người Việt Nam vốn có tinh thần
chống ngoại xâm, vừa để xin viện trợ cộng sản quốc tế và thi hành nghĩa
vụ quốc tế, như Lê Duẫn đã từng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Trung
Quốc, cho Liên Xô” (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991-2000, trả
lời phỏng vấn đài BBC ngày 24-1-2013.)
Kết luận
Hiệp
định Genève là hiệp định đình chỉ quân sự. Chính thể QGVN hay VNCH tức
NVN đã thi hành đúng hiệp định. Trong khi VNDCCH liên tục vi phạm hiệp
định nầy. Do tham vọng quyền lực, do chủ trương bành trướng chủ nghĩa
cộng sản và do làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng, VNDCCH mở cuộc
chiến từ năm 1960, tấn công Việt Nam Cộng Hoà dưới chiêu bài thống nhất
đất nước và chống Mỹ cứu nước. Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genéve xin
ôn lại điều nầy để giới trẻ trong và ngoài nước thấy rõ nguyên nhân của
cuộc chiến 1960-1975, làm cho đất nước điêu tàn và khoảng 3 triệu người
Việt tử vong, xuất phát từ VNDCCH hay BVN do đảng Lao Động hay đảng Cộng
Sản Việt Nam điều khiển.
Điều
nầy càng làm sáng tỏ chính nghĩa của VNCH, cương quyết chống lại CSBVN,
bảo vệ nền tự do dân chủ ở NVN, chống lại sự xâm lăng của cộng sản và
sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Dầu thất bại, chính nghĩa tự do
dân chủ của VNCH vẫn luôn luôn sáng ngời và luôn luôn là mục tiêu tối
hậu mà nhân dân Việt Nam hiện đang cố gắng vươn tới.
Trần Gia Phụng
Toronto, 20-7-2014
No comments:
Post a Comment