Điều đó nói lên thành công to lớn và ngay lập tức của tác phẩm. Sinh thời Orwell tác phẩm này đã được dịch ra tất cả các ngôn ngữ chính của châu Âu cũng như các thứ tiếng như Telugu (một dân tộc thuộc bắc Ấn Độ), Ba Tư, Aixlen và Ukraine. Sau hơn 50 năm kể từ lần xuất bản đầu tiên, tác phẩm đã được dịch ra 68 thứ tiếng trên thế giới và thuờng xuyên được tái bản. Trong lần bình chọn 100 tác phẩm hay nhất trong thế kỉ XX do nhà sách Random House tiến hành, Trại Súc Vật được xếp thứ 31.
Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của
George Orwell chúng tôi xin giới thiệu Trại Súc Vật, một trong hai tác phẩm nổi
tiếng nhất của ông với lời tựa cho lần xuất bản bằng tiếng Ukraine do chính
Orwell viết. Lời tựa này được Orwell viết bằng tiếng Anh (bản gốc đã bị thất
lạc), theo đề nghị của người tổ chức dịch thuật và phân phối tác phẩm này cho
những người Ukraine chạy trốn chế độ Xô viết và sống trong các trại tạm cư do
quân đội Anh và Mĩ thiết lập trên đất Đức. Lời tựa được dịch sang tiếng Ukraine
dành cho lần xuất bản đầu tiên vào năm 1947, nhà sách Penguin Classic trong lần
xuất bản năm 2000 đã cho dịch lại và in kèm với lời giới thiệu của Malcolm
Bradbury.
Sau tác phẩm Trại Súc Vật, George
Orwell còn viết một tác phẩm nổi tiếng 1984. Tác phẩm này nằm ở vị trí 13 trong
bảng tổng sắp của nhà sách Randomhouse đã nói ở trên. Tin rằng một ngày gần đây
tác phẩm bất hủ này cũng sẽ ra mắt độc giả tiếng Việt.
-Phạm Minh Ngọc
Tôi được yêu cầu viết lời giới thiệu
cho bản dịch tác phẩm Trại Súc Vật sang tiếng Ukraine. Tôi nhận thức rõ rằng
tôi đang viết cho những độc giả mà tôi không có một chút hiểu biết nào và họ
cũng chưa từng có cơ hội tìm hiểu tôi.
Trong lời giới thiệu chắc chắn các
độc giả muốn tôi kể về quá trình sáng tác tác phẩm Trại Súc Vật, nhưng trước
tiên tôi muốn tự kể về mình và những trải nghiệm đã dẫn tôi đến quan điểm chính
trị hiện nay.
Tôi sinh năm 1903 tại Ấn Độ. Lúc đó
cha tôi là một viên chức trong bộ máy hành chính Anh quốc ở đấy, gia đình tôi thuộc
tầng lớp trung lưu gồm các quân nhân, tu sĩ, viên chức chính phủ, giáo sư, luật
sư, bác sĩ v.v... Tôi tốt nghiệp trung học tại Eton, một trường công lập thuộc
loại đắt nhất nước Anh thời đó. Nhưng tôi được vào học ở đây là do được nhận
học bổng chứ cha tôi không thể có tiền để gửi tôi vào học những trường như thế.
Ngay sau khi thôi học (lúc đó tôi
chưa đủ 20 tuổi) tôi đi Miến Điện và tham gia lực lượng cảnh sát Hoàng gia tại
đây. Tôi làm ở đó năm năm. Việc này hoàn toàn không hợp với tôi, tôi trở nên căm
ghét chủ nghĩa đế quốc mặc dù lúc đó tinh thần quốc gia ở Miến Điện chưa cao và
quan hệ giữa người Anh và người Miến cũng chưa đến nỗi nào. Sau khi về lại Anh
quốc vào năm 1927 tôi giải ngũ và bắt đầu viết văn: thời gian đầu không có
thành công đáng kể nào. Trong những năm 1928-1929 tôi sống ở Paris, chuyên viết
truyện ngắn và tiểu thuyết nhưng không có nhà xuất bản nào chịu in (tôi đã xé
bỏ hết). Những năm sau đó tôi phải tay làm hàm nhai, đôi khi phải nhịn đói. Chỉ
từ năm 1934 tới nay tôi mới sống được bằng ngòi bút. Trong thời gian này tôi đã
sống nhiều tháng giữa những người nghèo khổ và bất hảo, ăn xin và ăn cắp tại
những khu vực tồi tệ nhất của những khu phố nghèo. Lúc đầu tôi phải nhập bọn
với họ vì không có tiền, nhưng sau này tôi lại rất thích lối sống đó. Tôi đã
dành nhiều tháng trời để nghiên cứu đời sống thợ mỏ ở miền Bắc nước Anh. Cho
đến năm 1930 nói chung tôi vẫn chưa phải là người theo trường phái xã hội. Thực
ra tôi vẫn chưa xác định được quan điểm chính trị của mình.Tôi trở thành người
theo trường phái xã hội vì căm thù cách người ta đàn áp và khinh thường tầng
lớp công nhân công nghiệp nghèo khổ chứ không phải vì thán phục xã hội theo kế
hoạch hoá về mặt về mặt lí luận.
Tôi lập gia đình năm 1936. Cuộc nội
chiến ở Tây Ban Nha nổ ra ngay trong những ngày đó. Hai vợ chồng tôi đều muốn
đi Tây Ban Nha để chiến đấu cho chính phủ nước này. Chúng tôi sẵn sàng lên
đường, sáu tháng sau đó, khi tôi viết xong cuốn sách mà tôi đã khởi sự từ
trước. Tôi đã ở mặt trận Aragon gần Huesca sáu tháng liền, cho đến khi bị một
phát đạn bắn tỉa xuyên qua cổ.
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến
những người ngoại quốc hoàn toàn không hiểu được cuộc đấu tranh giữa các đảng
phái ủng hộ chính phủ Tây Ban Nha. Do một loạt sự tình cờ, tôi không tham gia
các Binh đoàn Quốc tế như đa số những người ngoại quốc khác mà chiến đấu trong
hàng ngũ của lực lượng vũ trang POUM, đảng của những người theo phái Troskist
Tây Ban Nha.
Vì vậy giữa năm 1947 khi những người
Cộng sản nắm được quyền kiểm soát (hay một phần quyền kiểm soát) chính phủ Tây
Ban Nha và bắt đầu săn đuổi những người Troskist thì cả hai vợ chồng tôi đều
trở thành nạn nhân. Chúng tôi may mắn đi khỏi được Tây Ban Nha, thậm chí không
bị bắt lần nào. Nhiều bạn bè của chúng tôi đã bị bắn bỏ, một số bị tù đày nhiều
năm, số khác thì mất tích.
Những cuộc săn người ở Tây Ban Nha
xảy ra đồng thời với những cuộc thanh trừng vĩ đại ở Liên Xô. Thực chất những
vụ thanh trừng ở Tây Ban Nha và ở Nga chỉ là một (gọi là âm mưu với bọn phát
xít) và nếu nói về Tây Ban Nha thì tôi có đầy đủ cơ sở để tin rằng đấy là những
vụ kết án oan. Qua đó tôi đã nhận được một bài học đắt giá: nó dạy tôi rằng bộ
máy tuyên truyền của chế độ toàn trị dễ dàng lèo lái dư luận ở những nước dân
chủ đến mức nào.
Hai vợ chồng tôi đã chứng kiến những
người vô tội bị quẳng vào nhà giam chỉ vì họ bị nghi là không theo đường lối
chính thống. Khi trở về Anh chúng tôi thấy rất nhiều người thạo tin và nhạy bén
tin vào những bản án kì quặc về âm mưu phản bội và phá hoại do báo chí tường
thuật từ những vụ án ở Moscow.
Và tôi thực sự hiểu ra ảnh hưởng
tiêu cực của huyền thoại Xô viết đối với phong trào xã hội ở phương Tây.
Đến đây tôi xin dừng lại một chút để
trình bày thái độ của tôi đối với chế độ Xô viết.
Tôi chưa đến thăm Nga bao giờ và
hiểu biết của tôi về nước Nga chỉ là kiến thức do thu lượm được từ báo chí,
sách vở. Ngay cả nếu có đủ sức tôi cũng sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ
của Liên Xô: tôi sẽ không kết án Stalin và các cộng sự của ông ta chỉ vì những
phương pháp dã man và phi dân chủ của họ. Có thể là trong những điều kiện như
thế, dù có muốn, họ cũng không thể hành động khác được.
Nhưng mặt khác đối với tôi điều cực
kì quan trọng là nhân dân Tây Âu phải nhận rõ chế độ Xô viết như nó đang là. Từ
năm 1930 tôi nhìn thấy rất ít bằng chứng là Liên Xô đang tiến đến cái có thể
thực sự gọi là Chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, có những chỉ dấu rõ ràng rằng xã
hội ấy đang chuyển hoá thành xã hội có tôn ti trật tự và những người cầm quyền,
cũng như mọi giai cấp cầm quyền khác, chẳng thấy có lí do gì để rời bỏ quyền
lực đã làm tôi choáng váng. Hơn nữa công nhân và trí thức ở những nước như Anh
quốc lại không hiểu rằng Liên Xô hôm nay đã khác hẳn Liên Xô năm 1917. Một phần
vì họ không chịu hiểu (nghĩa là họ muốn tin rằng có một nước xã hội chủ nghĩa
quả thực đang tồn tại ở đâu đó), một phần vì họ quen với cuộc sống tự do và ôn
hoà, họ không biết gì về chủ nghĩa toàn trị.
Cần phải nhớ rằng nước Anh chưa phải
là nước hoàn toàn dân chủ. Đây vẫn là nước tư bản với những đặc quyền đặc lợi
giai cấp (ngay cả bây giờ, sau cuộc chiến tranh có xu hướng làm cho mọi người
bình đẳng hơn) và sự chênh lệch gay gắt về tài sản. Nhưng dù sao ở đây người
dân đã có cuộc sống không có những xáo trộn lớn suốt mấy trăm năm qua, luật
pháp tương đối công chính, tin tức và số liệu của chính quyền có thể tin được
và cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng là người ta có thể giữ và ủng hộ
quan điểm của thiểu số mà không bị bất kì đe dọa chết người nào. Trong hoàn
cảnh như vậy người ta không thể nào hiểu được những hiện tượng như trại tập
trung, cưỡng ép di cư hàng lọat, bỏ tù không cần xét xử, kiểm duyệt báo chí
v.v... Tất cả những điều đọc được trên báo chí về những nước như Liên Xô được
tự động phiên dịch sang các thuật ngữ của nước Anh và họ ngây thơ tin ngay
những điều dối trá của bộ máy tuyên truyền của chế độ toàn trị đó. Cho đến năm
1939, và cả sau này nữa, đa số người Anh không hiểu được thực chất chế độ
phát-xít ở Đức và nay họ cũng có ảo tưởng tương tự như vậy đối với Liên Xô.
Điều đó đặc biệt có hại đối với
phong trào Xã hội Anh và gây hậu quả xấu đối với chính sách đối ngoại của nước
Anh. Theo tôi, tin rằng nước Nga là nước xã hội chủ nghĩa và mọi hành vi của
những người cầm quyền ở đó đều nên được tha thứ, nếu không nói là phải theo là
sự phản bội đối với lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy trong mười năm gần đây
tôi đã đi đến kết luận rằng việc phá tan huyền thoại Xô viết là việc làm vô cùng
cần thiết nếu ta muốn tái sinh phong trào xã hội chủ nghĩa.
Ngay sau khi trở về từ Tây Ban Nha
tôi đã nghĩ đến việc vạch trần huyền thoại Xô viết dưới dạng một câu chuyện dễ
hiểu và dễ dịch sang các thứ tiếng khác. Nhưng chi tiết của câu chuyện vẫn chưa
có, cho đến một hôm (khi đó tôi sống ở nông thôn) tôi trông thấy một cậu bé,
khoảng mười tuổi, đang đánh một chiếc xe ngựa to trên một con đường hẹp, cứ mỗi
lần con ngựa định quay ngang là cậu bé lại ra roi. Trong đầu tôi bỗng loé lên ý
nghĩ rằng nếu loài vật nhận thức được sức mạnh của chúng thì con người không
thể nào còn điều khiển được chúng nữa và con người bóc lột loài vật cũng hệt
như các tầng lớp hữu sản bóc lột giai cấp vô sản vậy.
Tôi tiến hành phân tích học thuyết
của Marx trên quan điểm của súc vật. Đối với loài vật thì rõ ràng là luận điểm
về đấu tranh giai cấp giữa người với người chỉ là một sự lừa mị, vì mỗi khi cần
bóc lột súc vật là tất cả mọi người lại đoàn kết với nhau để chống lại chúng:
cuộc đấu tranh thực sự là cuộc đấu tranh giữa loài vật và loài người. Từ đây
việc tạo ra tác phẩm không còn khó nữa. Tôi bận nhiều việc khác, không có thì
giờ, cho nên mãi đến năm 1943 tôi vẫn chưa bắt đầu viết truyện này và cuối cùng
tôi đã đưa thêm một số sự kiện, thí dụ như Hội nghị Teheran là sự kiện xảy ra
trong thời gian tôi viết. Như vậy là đường hướng chính của câu chuyện đã nằm
trong đầu tôi suốt sáu năm trước khi tôi thực sự đưa nó lên giấy.
Tôi không có ý bình luận tác phẩm,
nếu tác phẩm không có sức thuyết phục thì có nghĩa là tác phẩm ấy đã thất bại.
Tôi chỉ muốn nhấn mạnh hai điểm: thứ nhất, mặc dù nhiều tình tiết được lấy từ
lịch sử của cuộc Cách mạng Nga nhưng chúng chỉ có ý nghĩa tượng trưng và trật
tự đã được thay đổi cho cân đối với cốt truyện. Điểm thứ hai thường bị các nhà
phê bình bỏ qua, nguyên nhân có thể là vì tôi chưa nhấn đúng mức. Nhiều độc giả
sau khi đọc xong có cảm tưởng rằng cuốn sách đã dừng lại ở sự hoà giải hoàn
toàn giữa loài lợn và loài người. Nhưng đấy không phải là ý của tôi, ngược lại,
tôi cố ý kết thúc ở chỗ chỉ rõ sự bất hoà, vì tôi viết chuyện này ngay sau Hội
nghị Teheran, mọi người lúc đó đều nghĩ rằng Hội nghị này sẽ thiết lập một mối
quan hệ tốt đẹp nhất có thể giữa Liên Xô và phương Tây. Cá nhân tôi không tin
rằng quan hệ tốt đẹp đó có thể kéo dài được lâu, và như các sự kiện cho thấy,
tôi đã không lầm.
Tôi không biết phải nói gì thêm nữa.
Nếu độc giả nào quan tâm đến cá nhân tôi thì tôi xin nói thêm rằng tôi đã goá
vợ, hiện tôi đang sống với con trai ba tuổi, tôi là nhà văn chuyên nghiệp nhưng
từ khi bắt đầu cuộc chiến thì tôi làm việc chủ yếu như một phóng viên.
Tôi thường viết cho tờ Tribune, một
tờ tuần báo đại diện cho phái tả của đảng Lao động. Các cuốn sách sau đây của
tôi có thể được độc giả quan tâm: Những ngày ở Miến điện (câu chuyện về Miến
điện), Tưởng nhớ Catalonia (viết về những trải nghiệm của tôi trong cuộc nội
chiến ở Tây Ban Nha) và tác phẩm Phê bình (các bài viết về văn học đương đại
Anh, được viết chủ yếu từ quan điểm xã hội học hơn là quan điểm thuần tuý văn
chương).
Chương 1
Ông Jones, chủ Điền Trang đóng cửa
chuồng gà, nhưng vì say quá nên quên đóng cửa chuồng lợn. Với chiếc đèn bão
trong tay, đung đưa, khi sang phải, khi sang trái, ông lảo đảo đi qua sân, tới
cửa sau thì lấy chân đạp ủng ra và bước vào bếp để uống nốt vại bia cuối cùng
trong ngày rồi leo lên giường, nơi vợ ông, bà Jones đã ngáy khò khò.
Ngay khi đèn trong phòng ngủ vừa
tắt, đây đó bỗng dậy lên những tiếng sột soạt, thì thầm. Ngày hôm đó có tin đồn
rằng Thủ Lĩnh, một con lợn đực trắng, từng được huy chương trong một cuộc triển
lãm, đêm hôm trước có một giấc mơ kì lạ và muốn kể cho mọi loài cùng nghe.
Chúng thoả thuận với nhau là ngay sau khi ông Jones đi ngủ sẽ tập trung trong
nhà kho lớn. Tất cả các con vật trong trang trại đều kính trọng Thủ Lĩnh (chúng
gọi nó như vậy, mặc dù khi đi dự triển lãm nó mang tên Willingdon Điển Trai) và
sẵn sàng hi sinh giấc ngủ để được nghe nó nói chuyện.
Thủ Lĩnh ngồi trên một cái bục có
nệm rơm phía trong cùng nhà kho, dưới ánh sáng của chiếc đèn bão treo trên xà
nhà. Nó đã mười hai tuổi, mặc dù thời gian gần đây có béo thêm, với những chiếc
răng nanh thò cả ra, nhưng trông nó vẫn có vẻ tiên phong đạo cốt, phúc hậu.
Những con khác bắt đầu lục tục kéo tới, mỗi con tìm một chỗ ngồi thuận lợi. Đầu
tiên là ba con chó Bluebell, Jessie và Pincher, sau đó là lũ lợn; chúng ngồi
trên đống rơm phía trước bục. Lũ gà leo lên bậu cửa sổ, đám bồ câu đậu trên rui
mè, bọn bò và cừu nằm phía sau lũ lợn và bắt đầu công việc nhai lại của chúng.
Hai con ngựa kéo xe tên là Chiến Sĩ và Bà Mập cùng vào, từ từ lại gần cái bục,
trước mỗi bước chúng đều thận trọng quan sát để không giẫm bẹp một con thú nhỏ
nào ở bên dưới lớp rơm. Bà Mập, một con ngựa cái trung niên hiền lành, thân
hình đã sồ sề vì bốn lần sinh nở. Chiến Sĩ, một con tuấn mã cao đến gần hai mét
và khoẻ bằng hai con ngựa khác. Vì có một vệt trắng dọc sống mũi nên trông nó
có vẻ đần, thực ra cu cậu cũng không thuộc loại thông minh, nhưng bù lại, nó
được các con khác tôn trọng vì tính kiên định và hay lam hay làm. Sau đó là đến
con dê trắng tên là Mona và con lừa tên là Benjamin. Benjamin là con vật già
nhất bọn, nhưng cũng là con xấu tính nhất. Benjamin ít nói, nhưng hễ mở miệng
là y như rằng nó tìm cách giễu cợt, ví dụ có lần nó tuyên bố rằng Thượng Đế tạo
cho nó cái đuôi để đuổi ruồi, nhưng giá đừng có cả đuôi lẫn ruồi thì còn thích
hơn. Nó là con vật duy nhất không bao giờ cười. Nếu hỏi tại sao thì nó bảo:
chẳng có lí do gì. Mặc dù vậy và tuy không nói ra nhưng nó rất trung thành với
Chiến Sĩ, chủ nhật nào hai con cũng yên lặng gặm cỏ bên nhau ở bãi giữ ngựa
phía sau khu vườn.
Hai con ngựa vừa nằm xuống thì bầy
vịt con mồ côi lao vào nhà kho, chúng vừa kêu chiếp chiếp khe khẽ vừa chạy
loanh quanh, mong tìm một chỗ an toàn. Bà Mập lấy chân trước khoanh thành một
khu cho chúng, lũ vịt con mau chóng chui vào đó rồi ngủ thiếp đi lúc nào không
hay. Ngay trước khi buổi nói chuyện bắt đầu thì Mollie, một ả ngựa cái dốt nát,
màu trắng, chuyên kéo chiếc xe nhỏ của ông Jones, vừa đi vừa nhai một cục
đường, mới õng ẹo bước vào. Nó lập tức chiếm ngay vị trí phía trước cái bục và
lắc lư bờm để mong những con khác chú ý đến dải ruy băng đỏ trang điểm trên đó.
Cuối cùng là một con mèo, nó nhìn quanh và vẫn như mọi khi, cố tìm cho mình một
chỗ thật ấm, rồi chen vào nằm giữa Chiến Sĩ và Bà Mập, chị chàng sung sướng
phát ra những tiếng gừ… gừ… trong cổ họng, mặc Thủ Lĩnh muốn nói gì thì nói.
Thế là tất cả các con vật trong Điền
Trang đã có mặt đầy đủ, chỉ trừ con quạ Moses, nó ngủ trên hàng rào ngay bên
ngoài cửa sau. Khi Thủ Lĩnh thấy tất cả đã an vị và sẵn sàng lắng nghe thì húng
hắng ho lấy giọng và bắt đầu:
"Thưa các đồng chí! Như các
đồng chí đã biết, đêm qua tôi có một giấc mơ kì lạ. Nhưng tôi sẽ nói chuyện đó
sau. Đầu tiên tôi muốn nói với các đồng chí một số việc hoàn toàn khác. Thưa
các đồng chí, tôi nghĩ rằng tôi không ở lại với các đồng chí được bao lâu nữa,
vì vậy tôi cho rằng trước khi chết mình phải có trách nhiệm chia sẻ với các
đồng chí những kinh nghiệm mà tôi đã tích lũy được trong suốt cuộc đời mình.
Tôi đã có một cuộc đời phải nói là dài và tôi đã suy nghĩ rất nhiều khi nằm một
mình trong chuồng, tôi nghĩ rằng tôi có thể nói là tôi hiểu đời không thua bất
kì con vật nào trên thế gian này. Đó là điều tôi muốn nói với các đồng chí.
Bây giờ, thưa các đồng chí, thực
chất đời sống của chúng ta là gì? Chúng ta hãy nhìn thẳng vào sự thật. Cuộc đời
của chúng ta là khổ sai, khốn nạn và yểu mệnh. Chúng ta sinh ra, chúng ta được
một khẩu phần vừa đủ để khỏi chết vì đói, những con nào có thể làm thì phải làm
đến kiệt sức và khi không làm được nữa thì chúng ta bị giết một cách vô cùng dã
man, tàn bạo. Không có con vật nào ở nước Anh này biết đến hạnh phúc và niềm
vui ngay khi vừa tròn một tuổi. Không có con vật nào ở nước Anh này được tự do.
Cuộc sống của loài vật là cuộc sống nghèo khổ và nô lệ: sự thật trần trụi là
như thế đấy.
Nhưng đấy có phải là qui luật của tự
nhiên không? Chả lẽ nước ta lại nghèo đến độ không nuôi nổi những động vật sống
ở đây ư? Không, ngàn vạn lần không, thưa các đống chí. Đất Anh màu mỡ, thời
tiết thuận hòa, thừa sức cung cấp thức ăn cho một số lượng động vật lớn hơn
hiện nay rất nhiều. Chỉ nội cái trang trại của chúng ta đã có thể nuôi được một
tá ngựa, hai chục bò, hàng trăm cừu và tất cả đều có thể sống trong tiện nghi
và phẩm giá mà nay chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi. Thế thì tại sao
chúng ta lại cứ tiếp tục sống trong điều kiện khốn nạn thế này? Bởi vì hầu như
toàn bộ những gì chúng ta làm ra đều bị con người chiếm đoạt hết. Đấy là nguyên
nhân tất cả các vấn nạn của chúng ta. Nói ngắn gọn bằng một từ là: Con Người.
Con Người là kẻ thù của chúng ta. Nếu không còn người nữa thì chúng ta vĩnh
viễn sẽ không còn bị đói, không còn phải làm công việc khổ sai nữa.
Người là giống vật duy nhất chỉ ăn
mà không làm. Người không làm ra sữa, không đẻ ra trứng, người không thể kéo
cày, không chạy nhanh bằng thỏ. Nhưng nó lại là chủ của tất cả chúng ta. Nó bắt
chúng ta làm việc, cướp lấy mọi thành quả lao động của chúng ta, chỉ cho chúng
ta ăn vừa đủ để không chết đói mà thôi. Chúng ta phải cày bừa, phân chúng ta
bón ruộng, thế mà chúng ta có gì? Chẳng có gì ngoài da bọc xương. Các đồng chí
bò đang ngồi trước mặt tôi đây, năm vừa qua các đồng chí cho bao nhiêu lít sữa?
Thế số sữa mà đáng lẽ dùng để nuôi các chú bò con ấy đi đâu? Kẻ thù của chúng
ta đã uống đến giọt cuối cùng. Còn các bạn gà, năm vừa qua các bạn đã đẻ bao
nhiêu trứng, trong đó có bao nhiêu quả nở thành gà con? Lão Jones và gia nhân
đã mang ra chợ bán lấy tiền hết rồi. Bà Mập, bốn đứa con của bà, niềm vui và
chốn nương tựa lúc tuổi cao bóng xế của bà đâu rồi? Chúng đã bị đem bán khi vừa
tròn một tuổi, bà sẽ không bao giờ được gặp lại chúng nữa. Một khẩu phần ăn
chết đói và cái chuồng, công cho bốn lần vượt cạn cũng như công việc đồng áng
của bà chỉ có thế mà thôi!
Nhưng dù khốn nạn như thế chúng ta
cũng có được sống trọn tuổi trời đâu. Riêng tôi thì chẳng có gì phải phàn nàn,
vì thực ra tôi đã gặp may. Năm nay tôi đã mười hai tuổi rồi, tôi có hơn bốn
trăm đứa con. Trời đất sinh ra giống lợn là như thế. Nhưng cuối cùng thì cũng
chẳng có con vật nào thoát khỏi lưỡi dao oan nghiệt. Tất cả các bạn lợn thịt
đang ngồi trước mặt tôi đây, trong vòng một năm nữa tất cả các bạn sẽ phải từ
giã cõi đời trên tấm phản mổ. Tất cả chúng ta, bò, lợn, gà, cừu, không ai trong
chúng ta tránh khỏi cái kết cục khủng khiếp đó. Số phận của loài ngựa và loài
chó cũng chẳng tốt đẹp hơn. Đồng chí Chiến Sĩ nữa, ngay khi cơ bắp của đồng chí
vừa yếu đi thì lão Jones sẽ bán đồng chí cho lão mổ ngựa, hắn sẽ cắt cổ đồng
chí rồi hầm dừ cho lũ chó săn ăn. Những con chó già, rụng răng sẽ bị lão Jones
buộc một viên gạch vào cổ và quăng xuống hồ.
Thưa các đồng chí, chả lẽ các đồng
chí không thấy rằng tất cả mọi khổ đau trong cuộc đời này của chúng ta chính là
do con người mà ra hay sao? Nếu chúng ta loại bỏ được Con Người thì mọi thành
quả lao động của chúng ta sẽ thuộc về chúng ta. Nếu làm được thế thì chỉ sau
một đêm chúng ta sẽ trở nên giàu có và tự do. Thế thì chúng ta phải làm gì? Làm
việc, không kể ngày đêm, cả bằng sức mạnh và tài năng để lật đổ ách thống trị
của loài người! Khởi nghĩa! Các đồng chí - đấy là thông điệp của tôi. Tôi không
biết khi nào thì cuộc Khởi Nghĩa sẽ xảy ra, có thể trong tuần tới, cũng có thể
là một trăm năm nữa, nhưng tôi biết rõ, như tôi đang nhìn thấy những cọng rơm
bên dưới chân tôi đây rằng sớm muộn gì rồi công bằng cũng sẽ được thiết lập.
Các đồng chí hãy nghĩ đến điều đó trong suốt cuộc đời còn lại ngắn ngủi của
mình! Ngoài ra, hãy chuyển thông điệp của tôi đến các thế hệ tương lai, để các
thế hệ đó tiếp tục cuộc đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng.
Các đồng chí hãy kiên định. Không
được dao động. Đừng có nghe theo lời tuyên truyền rằng Con Người và các loài
vật cùng có chung quyền lợi, rằng sự thịnh vượng của loài này cũng là sự thịnh
vượng của loài kia. Bịp bợm hết. Con Người không quan tâm đến quyền lợi của ai,
nó chỉ quan tâm đến chính nó mà thôi. Các loài vật chúng ta phải đoàn kết nhất
trí, phải có tinh thần đồng chí trong cuộc đấu tranh này. Tất cả loài người đều
là kẻ thù. Tất cả các con vật đều là đồng chí."
Đúng lúc đó thì tiếng ồn ào nổi lên.
Chả là trong khi Thủ Lĩnh đang nói thì có bốn con chuột cống bò ra khỏi hang và
cũng đến nghe. Mấy con chó đã trông thấy và may là lũ chuột kịp chạy vào hang,
không thì đã mất mạng rồi. Thủ Lĩnh phải giơ chân lên đề nghị im lặng.
"Thưa các đồng chí", nó
nói, "có một vấn đề cần phải giải quyết. Những con thú hoang như chuột
cống và thỏ, chúng là bạn hay là kẻ thù của chúng ta? Đề nghị biểu quyết. Tôi
xin đặt vấn đề với hội nghị như sau: Chuột có phải là đồng chí không?"
Cuộc bỏ phiếu được thực hiện ngay,
đa số tán thành coi chuột là đồng chí. Chỉ có bốn phiếu chống, đấy là ba con
chó và một con mèo, nhưng sau này mới phát hiện ra rằng mèo ta bỏ cả phiếu
thuận lẫn phiếu chống. Thủ Lĩnh tiếp tục:
"Tôi xin nói thêm một chút nữa.
Tôi chỉ muốn nhắc lại rằng nhiệm vụ của các đồng chí là phải luôn luôn tranh
đấu với Con Người và tất cả những gì do nó tạo ra. Tất cả những loài hai chân
đều là kẻ thù. Tất cả những loài bốn chân hoặc có cánh đều là bạn. Các đồng chí
lại phải luôn luôn nhớ rằng chúng ta không được bắt chước loài người trong cuộc
đấu tranh chống lại chúng. Ngay cả khi đã chiến thắng, chúng ta cũng không được
tập nhiễm các thói xấu của chúng. Không có con vật nào được sống trong nhà, ngủ
trên giường, mặc quần áo, uống rượu, hút thuốc, sử dụng tiền hoặc tham gia buôn
bán. Tất cả phong tục của loài người đều là có hại. Quan trọng nhất là không
con nào được áp chế con nào. Khoẻ cũng như yếu, thông minh tài trí cũng như
bình thường, tất cả chúng ta đều là anh em. Không được giết hại lẫn nhau. Mọi
con vật sinh ra đều bình đẳng.
Và bây giờ, thưa các đồng chí, tôi
sẽ kể cho các đồng chí nghe giấc mơ của tôi tối hôm qua. Tôi không thể mô tả
được. Tôi mơ thấy trái đất khi con người đã biến đi rồi. Giấc mơ này làm sống
dậy trong trí tôi một việc như sau:
"Cách đây đã lâu, khi tôi còn
là một chú lợn nhỏ, mẹ tôi cùng với các cô bác lợn khác thường hát một bài hát
có từ ngày xưa: họ chỉ nhớ nhạc điệu và ba từ đầu tiên thôi. Lúc bé tôi cũng
thuộc nhạc điệu, nhưng tôi đã quên từ lâu. Thế mà đêm qua, trong giấc mơ, tôi
đã nhớ lại tất cả, hơn thế nữa, tôi còn nhớ lại được cả lời bài hát, tôi tin
chắc rằng ngày xưa các loài vật đã từng hát như thế, nhưng sau này họ quên và
mấy thế hệ gần đây hoàn toàn không biết hát nữa. Bây giờ tôi sẽ hát cho các
đồng chí nghe. Tôi đã già, giọng không còn trong, nhưng khi tôi dạy nhạc điệu
cho các đồng chí thì các đồng chí sẽ hát hay hơn. Bài hát tên là: Súc Sinh Anh
quốc".
Thủ lĩnh già hắng giọng và bắt đầu
hát. Giọng đúng là đã khàn, nhưng nó hát cũng không đến nỗi tồi, giai điệu hỗn hợp
giữa kiểu "Clementine" và "La Cucuracha". Lời bài hát như
sau:
"Súc sinh Anh quốc
Súc sinh muôn nơi
Lắng nghe niềm vui mới
Của một ngày mai sáng tươi
Đồng cỏ núi đồi
Mãi mãi xanh ngời
Khi lũ người
Không còn là ách trên vai
Chạc, chạc không còn
Cương, cương cũng không
Roi vọt, chửi mắng
Chỉ là quá khứ tối tăm
Ta giàu, ta có
Vườn cây, đồng lúa
Đậu, sắn, ngô, khoai
Là của chúng ta từ đây
Mặt trời sáng soi
Nước càng ngọt tươi
Gió mát muôn đời
Là ngày tự do tương lai
Súc sinh Anh quốc
Súc sinh muôn nơi
Lắng nghe niềm vui mới
Của một ngày mai sáng tươi" 1
Bài hát đã làm cho lũ súc vật kích
động tột độ. Một số con kịp bắt theo ngay trước khi Thủ lĩnh hát hết bài. Ngay
những con ngu dốt nhất cũng nắm được nhạc điệu và thuộc mấy từ, còn những con
thông minh hơn, như lũ chó và lũ lợn, thì thuộc lòng cả bài ngay trong vài phút
đầu. Sau vài lần tập, cả trang trại đã cùng đồng ca được bài Súc Sinh Anh quốc.
Mỗi loài hát một giọng, bò rống, chó sủa, cừu kêu be be, ngựa hí, vịt kêu cạp
cạp. Chúng khoái bài hát đến độ hát liền một mạch năm lần và chúng có thể hát
mãi như thế suốt đêm nếu không bị ngăn trở.
Đáng tiếc là tiềng ồn ào đã làm ông
Jones thức giấc, ông bước xuống giường vì tin chắc là có một con cáo đã lọt vào
sân. Ông tìm khẩu súng vẫn thường dựng ở góc phòng và bắn một lọat đạn ghém lên
trời. Có mấy viên găm vào tường nhà kho và cuộc họp mau chóng kết thúc. Từng
con quay về chỗ ngủ của mình. Gia cầm nhảy lên ổ, còn gia súc thì nằm xuống
đống rơm và chẳng bao lâu sau cả trang trại đã chìm vào giấc ngủ.
--------------------------------
1 Nguyên văn hai bài thơ " Súc
Sinh Anh quốc":
Beasts of England
Beasts of England, beasts of
Ireland,
Beasts of every land and clime,
Hearken to my joyful tidings
Of the golden future time.
Soon or late the day is coming,
Tyrant Man shall be o'erthrown,
And the fruitful fields of England
Shall be trod by beasts alone.
Rings shall vanish from our noses,
And the harness from our back,
Bit and spur shall rust forever,
Cruel whips no more shall crack.
Riches more than mind can picture,
Wheat and barley, oats and hay,
Clover, beans and mangel-wurzels
Shall be ours upon that day.
Bright will shine the fields of
England,
Purer shall its waters be,
Sweeter yet shall blow its breezes
On the day that sets us free.
For that day we all must labour,
Though we die before it break;
Cows and horses, geese and turkeys,
All must toil for freedom's sake.
Beasts of England, beasts of
Ireland,
Beasts of every land and clime,
Hearken well and spread my tidings
Of the
golden future time.
Chương 2
Ba đêm sau Thũ Lĩnh già bình thản ra
đi. Xác nó được chôn ở cuối khu vườn.
Chuyện đó xảy ra vào đầu tháng ba.
Lũ súc vật tăng cường hoạt động ngầm liên tục trong ba tháng tiếp theo. Bài
diễn văn của Thủ Lĩnh đã tạo ra một quan niệm sống hoàn toàn mới nơi những con
thông minh. Chúng không biết khi nào thì cuộc Khởi Nghĩa mà Thủ Lĩnh tiên đoán
sẽ xảy ra, chúng cũng không nghĩ sẽ được chứng kiến cảnh tượng đó, nhưng chúng
biết rõ một điều là có trách nhiệm tiến hành công việc chuẩn bị. Công tác giáo
dục và tổ chức dĩ nhiên là được giao cho bọn lợn vì chúng vốn được coi là loài
thông minh nhất. Hai con lợn đực giống trẻ tên là Tuyết Tròn và Napoleon đang
được ông Jones vỗ béo để bán là hai con nổi tiếng nhất. Napoleon là một con lợn
đực, trông hung dữ, giống Berkshire duy nhất trong Điền Trang, nó vốn kiệm lời
nhưng nổi tiếng kiên nhẫn. Tuyết Tròn thì hoạt bát, dẻo miệng hơn, có nhiều
sáng kiến hơn, nhưng đa số cho rằng tính cách không được sâu sắc bằng Napoleon.
Số còn lại đều là lợn thịt. Con nổi bật nhất trong số đó tên là Chỉ Điểm, một
con lợn nhỏ, khá béo nhưng lanh lợi, hai má phính, đôi mắt đảo lia lịa còn
giọng nói thì the thé. Nó là một diễn giả có hạng, khi cần chứng minh một vấn đề
khó khăn thì nó nhảy qua nhảy lại và vẫy đuôi, trông rất thuyết phục. Đồn rằng
nó có thể biến đen thành trắng dễ như chơi.
Ba con này đã phát triển học thuyết
của Thủ Lĩnh già thành một hệ thống triết học hoàn chỉnh mà chúng gọi là Súc
Sinh Kinh. Đêm nào cũng vậy, cứ sau khi ông Jones đi ngủ là chúng bí mật tụ họp
trong nhà kho để giảng giải cho những con khác các luận điểm chủ yếu của Súc
Sinh Kinh. Thoạt đầu quả là có nhiều khó khăn vì lũ súc vật tỏ ra hờ hững và
rất ngu dốt. Có con nói rằng có nghĩa vụ trung thành với ông Jones mà nó gọi là
ông chủ, có con còn phát biểu một cách thiếu ý thức: "Ông Jones nuôi chúng
ta. Không có ông ấy thì ta chết đói rã họng ra ấy chứ". Một số con còn đặt
câu hỏi đại loại: "Quan tâm đến chuyện sau khi ta chết để làm gì?"
hoặc "Đằng nào thì cuộc khởi nghĩa cũng sẽ diễn ra, ta làm hay không làm
thì cũng thế thôi". Mấy con lợn phải khó khăn lắm mới thuyết phục được
chúng rằng những luận điệu như thế là hoàn toàn trái với tinh thần của Súc Sinh
Kinh. Nhưng những câu hỏi ngu xuẩn nhất lại là của ả ngựa cái màu trắng tên là
Mollie. Đầu tiên ả hỏi Tuyết Tròn:
"Thế sau khi khởi nghĩa thì có
đường không?"
"Không", Tuyết Tròn ngắt
lời, "Chúng ta không sản xuất đường. Thực ra đồng chí sẽ không cần đường.
Đồng chí sẽ có đủ yến mạch và rơm mà đồng chí cần."
"Thế tôi có còn được đeo ruy
băng nữa không?"
"Đồng chí", Tuyết Tròn
nói, "Cái ruy băng mà đồng chí yêu thích đó chính là biểu tượng của tinh
thần nô lệ. Chả lẽ đồng chí không thấy rằng tự do đáng quí hơn cái ruy băng hay
sao?"
Mollie đồng ý, nhưng trông nó có vẻ
không tin tưởng lắm.
Bọn lợn còn gặp nhiều khó khăn hơn
trong việc bác bỏ những luận điệu do con quạ Moses đưa ra. Moses là con vật
cưng của ông Jones, nó chuyên đi rình rập nhưng lại nhớ rất nhiều chuyện cổ
tích và cũng là một diễn giả có hạng. Nó bảo rằng có biết một vương quốc thần
thoại tên là Núi Xôi, nơi linh hồn các con vật sẽ tới sau khi chầu trời. Moses
nói rằng vùng đó nằm không xa, sau các đám mây. Ở đó cả bảy ngày trong tuần đều
là chủ nhật hết, còn cỏ ba lá thì xanh quanh năm, đường phèn và bánh khô thì
mọc ngay trên bờ dậu. Các con vật rất ghét Moses vì nó chỉ nói chứ không làm, nhưng
có vài con lại tin là có miền cực lạc Núi Xôi của nó, thành ra lũ lợn phải vất
vả lắm mới thuyết phục được chúng rằng không thể nào có một miền như thế được.
Tông đồ tin cậy nhất của chúng là
hai con ngựa kéo xe, Chiến Sĩ và Bà Mập. Hai con này vốn dĩ chậm hiểu nhưng khi
chúng đã coi lũ lợn là sư phụ rồi thì nuốt lấy từng lời giáo huấn rồi giảng
giải lại cho những con khác bằng thứ ngôn ngữ dễ hiểu hơn. Hai con này không bỏ
bất cứ một buổi họp nào và thường là những kẻ cầm càng bài Súc Sinh Anh quốc mỗi
khi cuộc họp kết thúc.
Cuộc Khởi Nghĩa xảy ra sớm hơn và dễ
dàng hơn chúng tưởng rất nhiều. Trong những năm gần đây, ông Jones, vốn là một
điền chủ giỏi và nghiêm khắc, đã gặp nhiều sự cố. Sau khi bị mất nhiều tiền vào
việc kiện tụng, ông trở nên ủ dột và uống nhiều rượu hơn bình thường. Ông
thường ngồi cả ngày trên chiếc ghế bành trong bếp, vừa đọc báo vừa uống bia,
thỉnh thoảng lại cho con Moses những mẩu vỏ bánh mì chấm bia. Gia nhân thành ra
một lũ lười nhác, trộm cắp, đồng nội thành bãi đất hoang, nhà cửa dột nát, rào
dậu nghiêng đổ, súc vật thường xuyên bị bỏ đói.
Đã sang tháng sáu, đây là mùa cắt
cỏ. Trước ngày Hạ chí 2 , hôm ấy là thứ bảy, ông Jones đi Willingdon và uống
đến say khướt tại nhà hàng Sư Tử Đỏ, trưa chủ nhật mới về. Bọn gia nhân thì vội
vàng vắt sữa từ sáng sớm rồi bỏ đi săn thỏ mà không thèm cho súc vật ăn tí nào.
Về đến nhà ông Jones leo ngay lên ghế sopha trong phòng khách rồi lấy tờ
"News of the World" 3 phủ lên mặt và ngủ, súc vật bị bỏ đói cho đến
tận chiều tối. Cuối cùng chúng hết chịu nổi. Một con bò cái húc đổ cửa nhà kho
và thế là tất cả mọi con vật cùng lao vào các thùng chứa ngũ cốc. Đúng lúc đó
thì ông Jones thức giấc. Ông và bốn người làm công lập tức vồ lấy roi và lao
vào kho, họ cứ thế quật túi bụi lên lưng lũ súc vật khốn nạn. Lũ súc vật đói
khát không thể chịu đựng thêm được nữa. Dù không hẹn trước, chúng cùng xông lên
và lao thẳng vào những kẻ áp bức. Ông Jones và gia nhân bất ngờ bị đá, bị húc
từ mọi hướng. Tình hình trở nên không thể kiểm soát được. Họ chưa từng gặp
chuyện như thế bao giờ, cuộc nổi loạn bất thình lình của lũ súc vật mà trước
đây muốn đánh đập, muốn hành hạ thế nào mặc lòng, đã làm họ hoảng loạn. Họ chỉ
cầm cự được vài phút rồi phải bỏ chạy. Cả năm người vội vã lao ra con đường nhỏ
để chạy lên đường làng, trong khi lũ súc vật hào hứng truy kích theo.
Qua cửa sổ phòng ngủ, bà Jones đã
nhìn thấy hết mọi chuyện, bà vội vàng cho một vài thứ vào cái túi vải rồi luồn
theo cửa sau trốn khỏi Điền Trang. Moses cũng kịp lao ra khỏi tổ rồi vừa kêu
vừa bay theo bà chủ. Lũ súc vật sau khi truy kích thắng lợi đã quay về và đóng
cổng. Thế là, cuộc Khởi Nghĩa đã toàn thắng, ông Jones bị đuổi đi, Điền Trang
là của bọn súc sinh ngay trước khi chúng kịp hiểu mọi chuyện.
Ban đầu chúng không tin là số phận
đã mỉm cười với chúng. Việc làm đầu tiên của chúng là tập trung lại và chạy
vòng quanh khu nhà để tìm xem có còn sót người nào bên trong không, sau đó
chúng lao vào các toà nhà để phá hủy tàn tích của chế độ cai trị độc tài của
ông Jones. Kho công cụ ở phía cuối chuồng ngựa bị đập phá, thế là bao nhiêu hàm
thiếc ngựa, vòng đeo mũi bò, xích chó, dao hoạn lợn và cừu bị ném hết xuống
giếng. Còn dây cương, dây thòng lọng, các miếng da che mắt ngựa, giỏ thức ăn cũ
thường treo ở cổ ngựa thì bị quăng vào đống lửa giữa sân. Những chiếc roi cũng
cùng chung số phận. Mọi con vật cùng nhảy cỡn lên khi trông thấy những cái roi
bắt lửa. Tuyết Tròn còn vất luôn vào lửa những cái ruy băng vẫn thường buộc
trên bờm và đuôi ngựa mỗi kì hội chợ.
"Ruy băng", nó tuyên bố,
"phải được coi là quần áo, cũng là biểu tượng của loài người. Mọi con vật
đều phải khỏa thân."
Nghe thấy thế Chiến Sĩ vội tháo cái
mũ rơm mà nó thường mang trong mùa hè để ngăn ruồi khỏi lọt vào tai và ném vào
lửa.
Chẳng mấy chốc lũ súc vật đã phá hủy
tất cả những thứ có liên quan đến ông Jones. Napoleon dẫn cả bọn vào kho và
phát gấp đôi khẩu phần ăn hàng ngày, mỗi con chó được hai bánh qui bơ. Sau đó
chúng hát bài Súc Sinh Anh quốc bảy lần liền, rồi cả bọn đi ngủ, chưa bao giờ
chúng ngủ ngon như hôm ấy.
Như thường lệ, chúng thức dậy khi
trời vừa rạng sáng, nhưng chúng lập tức nhớ ngay đến sự kiện vinh quang vừa xảy
ra và thế là cả bọn cùng lao ra đồng cỏ. Trên đồng cỏ có một cái gò nhỏ, từ đây
có thể nhìn thấy hầu khắp trang trại. Lũ súc vật chạy lên đó và ngắm nhìn khung
cảnh trong ánh hồng của một ngày mới. Tất cả, tất cả những gì trước mắt kia giờ
đây đã thuộc về chúng! Trong trạng thái ngất ngây, chúng cứ chạy quanh, chạy
quanh mãi, thỉnh thoảng chúng lại nhảy lên vì sung sướng! Chúng lăn mình trên
sương ướt, chúng gặm đầy mồm cỏ ngọt mùa hè, chúng hất tung lên những nắm đất
đen và hít hà mùi vị ấm nồng của nó. Sau đó chúng đi kiểm tra một vòng khắp
trang trại, chúng yên lặng ngắm nhìn khu ruộng lúa, đồng cỏ, vuờn quả, ao cá,
lùm cây. Chúng ngắm nhìn như chưa từng nhìn thấy những thứ ấy bao giờ, và ngay
cả lúc này chúng cũng chưa tin rằng tất cả những thứ đó đã là của chúng.
Sau đó cả bọn lại cùng nhau quay về
và yên lặng tập trung trước ngôi nhà chính. Dù ngôi nhà này cũng đã thuộc về
chúng nhưng chúng còn ngại, chưa dám vào ngay. Nhưng Tuyết Tròn và Napoleon đã
mau chóng lấy lại được bình tĩnh và dùng vai phá cửa, rồi từng con lục tục,
thận trọng bước vào, tránh không làm xáo trộn các đồ vật bên trong. Chúng nhón
gót đi từ phòng nọ sang phòng kia, thì thào, hồi hộp ngắm nhìn cảnh xa hoa
không thể nào tin được đang bày ra trước mắt, nào giường nệm lông vịt, nào
gương soi, nào ghế nệm lông ngựa, nào thảm nhung 4, rồi ảnh nữ hòang Vitoria
[5] treo trên lò sưởi trong phòng khách. Nhưng khi xuống đến bậc tam cấp thì
chúng bỗng phát hiện ra là thiếu mất Mollie. Chúng quay vào và thấy Mollie còn
đứng trong căn phòng ngủ đẹp nhất nhà. Hoá ra cô nàng đã lấy một dải ruy băng
màu xanh trên bàn trang điểm của bà Jones, vắt lên vai và đang thẫn thờ soi
gương. Các con khác túm ngay lấy nó và lôi ra khỏi nhà. Mấy cái đùi lợn muối
treo trong bếp được đem đi chôn, thùng bia trong phòng rửa bát thì bị Chiến Sĩ
đá thủng, những thứ khác hầu như được giữ nguyên chỗ cũ. Một nghị quyết về việc
giữ toà nhà chính làm viện bảo tàng được nhất trí thông qua ngay tại chỗ. Tất
cả đều đồng ý là không con nào có quyền sống trong toà nhà này.
Chúng đi ăn sáng và sau đó Tuyết
Tròn và Napoleon mời tất cả tập trung.
"Thưa các đồng chí", Tuyết
Tròn nói, "Bây giờ là bảy giờ rưỡi, chúng ta còn cả một ngày nữa cơ. Hôm
nay chúng ta sẽ bắt đầu cắt cỏ, nhưng chúng ta còn một việc phải làm trước
đã."
Thế là hai con lợn nói rằng nhờ
những cuốn sách vỡ lòng của con ông Jones tìm được trong đống rác mà suốt ba
tháng qua chúng đã học và nay chúng đã biết đọc, biết viết. Napoleon sai đi lấy
một lọ sơn đỏ, một lọ sơn trắng rồi dẫn cả bọn đi ra cổng lớn. Tuyết Tròn (vì
nó là con viết đẹp nhất) kẹp cái chổi sơn giữa hai móng chân, xoá chữ Điền
Trang và viết chữ Trại Súc Vật lên cái thanh trên cùng của cánh cổng. Từ nay trở
đi đấy sẽ là tên chính thức của trại này. Sau đó cả bọn quay lại khu nhà, Tuyết
Tròn và Napoleon lại ra lệnh tìm một cái thang rồi dựng sát vào đầu hồi nhà
kho. Chúng giải thích rằng sau một thời kì khổ công nghiên cứu, ba tháng gần
đây chúng đã đúc kết các luận điểm của Súc Sinh Kinh thành Bảy Điều Răn. Bảy
Điều Răn sẽ được kẻ lên tường và sẽ là luật vĩnh viễn bất di bất dịch của tất
cả các thành viên Trại Súc Vật. Tuyết Tròn leo lên thang một cách khó nhọc (vì
lợn khó giữ thăng bằng khi đứng trên thang) và bắt đầu viết, trong khi Chỉ Điểm
cầm hộp sơn đứng bên dưới mấy bậc. Các điều răn được viết bằng sơn trắng trên
bức tường quét hắc ín, đứng xa cả ba chục mét cũng đọc rõ. Nội dung như sau:
BẢY ĐIỀU RĂN
Tất cả các loài hai chân đều là kẻ
thù.
Tất cả các loài bốn chân hoặc có
cánh đều là bạn.
Không con vật nào được mặc quần áo.
Không con vật nào được ngủ trên
giường.
Không con vật nào được uống rượu.
Loài vật không được giết hại lẫn
nhau.
Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng.
Các chữ đều được viết rõ ràng và cả
đoạn chỉ có hai lỗi chính tả mà thôi, đấy là chữ "giường" bị viết
thành "gưìơng" và một chữ S bị viết ngược. Tuyết Tròn đọc to lên cho
tất cả cùng nghe. Tất cả đều gật đầu đồng ý, những con thông minh hơn lập tức
học thuộc lòng các Điều Răn.
"Bây giờ, thưa các đồng chí''
Tuyết Tròn vừa ném cái chổi sơn xuống đất vừa gào lên, "tất cả ra đồng cắt
cỏ! Chúng ta phải thu hoạch nhanh hơn lão Jones và lũ gia nhân của hắn.''
Đúng lúc đó thì ba con bò cái vốn
cảm thấy khó chịu từ trước bỗng rống lên. Suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ qua
chúng chưa được vắt sữa, vú của chúng căng mọng như muốn nổ ra đến nơi. Sau một
chút đắn đo, lũ lợn sai mang xô tới và đã thực hiện công việc khá thành thạo,
chân chúng tỏ ra phù hợp với công việc này. Chẳng mấy chốc đã vắt được năm xô
đầy sữa béo, một số con tò mò đến xem.
"Làm gì với số sữa này nhỉ'',
có con hỏi.
"Lão Jones thỉnh thoảng có trộn
sữa vào thức ăn của chúng tôi đấy'', một chị gà mái lên tiếng.
"Các đồng chí, để ý đến sữa làm
gì!'', Napoleon vừa gào lên vừa bước ra đằng trước mấy xô sữa, "Để đấy rồi
tính sau. Thu hoạch quan trọng hơn. Đồng chí Tuyết Tròn sẽ dẫn đầu. Tôi sẽ ra
sau một lúc. Các đồng chí, tiến lên! Vụ thu hoạch đang cần chúng ta.''
Các con vật tiến ra cánh đồng và bắt
đầu cắt cỏ, nhưng chiều về thì chúng không thấy mấy xô sữa đâu nữa.
--------------------------------
2 Hạ chí: ngày 24 tháng 6.
3 News of the World - Tờ báo ra vào
chủ nhật, thường đăng các tin giật gân, không mang tính chất chính trị, phát
hành 5 triệu bản mỗi số. Xuất bản từ năm 1843.
4 Nguyên văn the Brussels carpet -
Thảm Brussels.
5 Nữ hoàng
Anh trị vì từ năm 1837 đến năm 1901.
Chương 3
Phải công nhận là chúng làm việc rất
chăm, không quản mệt mỏi, chỉ cốt thu hoạch cho xong! Công khó của chúng đã
được đền bù, chúng thu được nhiều hơn dự kiến.
Đôi khi chúng cũng gặp một số khó
khăn vì tất cả công cụ đều được làm để dành cho người chứ không phải cho súc
vật, mà muốn sử dụng công cụ đó thì phải đứng được trên hai chân sau. Nhưng
phải nói bọn lợn là một giống thông minh - khó đến đâu chúng cũng có cách. Còn
lũ ngựa thì hiểu rõ từng thửa ruộng, mà cắt và vun cỏ thành đống thì chúng làm
thạo hơn ông Jones và gia nhân nhiều. Bọn lợn không làm mà chỉ hướng dẫn và
kiểm tra các con khác. Với kiến thức như thế thì việc chúng nắm vai trò lãnh
đạo là đương nhiên. Chiến Sĩ và Bà Mập tự khoác lên mình máy cắt hoặc máy bừa
cỏ (dĩ nhiên là không cần hàm thiếc, cũng chẳng cần cương) và kiên nhẫn đi khắp
cách đồng, trong khi một con lợn nào đó bước theo sau, thỉnh thoảng lại kêu
"Đi thẳng, đồng chí!" hoặc "Quay lại, đồng chí!". Tất cả
các con vật, không kể lớn nhỏ, đều tham gia cắt và xếp cỏ. Ngay đến bọn gà vịt
cũng phơi mình dưới nắng suốt ngày để tham gia vận chuyển từng lọn cỏ nhỏ bằng mỏ.
Chúng đã hoàn tất công việc một cách nhanh chóng, phải nói là nhanh hơn người,
nếu ông Jones và gia nhân làm thì phải hai ngày nữa mới xong. Hơn nữa đấy lại
là một vụ mùa năng suất nhất từ trước đến nay. Không có chuyện rơi vãi vì bọn
gà, vịt rất tinh mắt, chúng nhặt đến từng cọng một. Và cũng không có con nào ăn
vụng, dù chỉ một miếng ngoạm.
Công việc của trang trại diễn ra
thuận lợi trong suốt mùa hè năm đó. Bọn súc vật cảm thấy vô cùng sung sướng,
chúng chưa bao giờ nghĩ rằng chuyện đó lại có thể xảy ra. Ăn là cả một niềm
vui, vì bây giờ thức ăn là của chúng, do chúng và vì chúng chứ không phải là
thứ do một ông chủ keo bẩn bố thí cho nữa. Sau khi chúng đã tống khứ được lũ
người ăn bám vô tích sự đi rồi thì khẩu phần mỗi con dĩ nhiên là nhiều hơn. Và
mặc dù chưa có kinh nghiệm, chúng vẫn có nhiều thời gian thư giãn hơn. Chúng có
gặp một số khó khăn, ví dụ khi thu hoạch ngũ cốc thì phải dùng sức để thổi trấu
đi vì trang trại không có máy đập, nhưng với trí thông minh của lũ lợn và sức
khoẻ của Chiến Sĩ thì việc gì mà chúng chẳng làm được. Chiến Sĩ rất được kính
trọng. Ngay khi còn ông Jones nó đã chăm chỉ rồi, nhưng bây giờ nó làm việc
bằng ba, có ngày tưởng chừng như toàn bộ công việc của trại đều đổ dồn lên vai
nó. Nó kéo rồi đẩy từ sáng đến tối và bao giờ cũng có mặt ở những chỗ khó khăn
nhất. Nó nhờ một con gà trống đánh thức trước nửa tiếng và tự nguyện làm một số
việc cần kíp nhất trước khi ngày làm việc chính thức bắt đầu. Trước bất cứ khó
khăn, trở ngại nào nó đều nói: "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa!", câu ấy đã trở
thành phương châm hành động của chính nó.
Những con khác cũng làm việc hết
mình. Thí dụ lũ gà và vịt đã mót được đến hai tạ ngũ cốc. Thói ăn cắp vặt;
những tiếng ỉ eo về miếng ăn, miếng uống; chuyện cãi vã, cắn xé; thói ghen tị -
những thói xấu đó của quá khứ đã biến mất hẳn. Không con nào trốn việc - đúng
ra là gần như không con nào. Mollie không thích dậy sớm và tìm cách chuồn
trước, nại rằng có hòn đá nhỏ dắt vào móng. Thái độ của con mèo cũng đáng ngờ.
Cứ khi nào cần là y như rằng nó đã bỏ đi đâu mất từ trước rồi. Chị chàng thường
bỏ đi đâu đó rất lâu và chỉ xuất hiện, như chưa có chuyện gì xảy ra, ngay trước
bữa ăn hay vào buổi chiều, khi công việc đã hoàn tất. Nhưng nó luôn luôn tìm
được cách giải thích và kêu gừ gừ một cách đáng yêu, thành ra khó mà nghi ngờ
được thiện chí của nó. Chỉ có con lừa già Benjamin là vẫn như cũ. Nó vẫn làm
công việc một cách chậm chạm cố hữu như thời còn ông Jones, không bao giờ trốn
việc, cũng chẳng bao giờ làm hơn. Nó không nói gì về cuộc Khởi Nghĩa cũng như
những đổi thay sau đó. Nếu được hỏi có cảm thấy vui hơn thời còn ông Jones
không, thì nó bảo: "Đời lừa dài lắm. Các vị chưa thấy lừa chết bao giờ cơ
mà" - bao giờ nó cũng nói một câu bí hiểm như vậy.
Ngày chủ nhật nghỉ. Bữa sáng ăn muộn
hơn một tiếng và sau đó bao giờ cũng có một cuộc họp mặt long trọng. Trước hết
là lễ kéo cờ. Tuyết Tròn tìm được trong kho dụng cụ một tấm khăn trải bàn cũ
màu xanh của bà Jones rồi vẽ một cái móng và một cái sừng màu trắng lên trên.
Và thế là buổi sáng chủ nhật nào chiếc khăn trải bàn cũng tung bay trên cột cờ
trong vườn hoa. Tuyết Tròn giải thích rằng màu xanh tượng trưng cho đồng ruộng
Anh quốc, còn sừng và móng là biểu tượng của nước Cộng Hòa Súc Vật tương lai,
khi đã lật đổ được toàn bộ giống người rồi. Sau khi kéo cờ mọi con vật cùng đến
tập trung trong nhà kho lớn, chúng gọi đấy là Họp. Chúng lập kế họach cho tuần
sau cũng như thảo luận và ra nghị quyết về các kiến nghị khác nhau tại đây. Chỉ
có bọn lợn đưa ra kiến nghị mà thôi. Những con khác chỉ biết biểu quyết chứ
không kiến nghị gì bao giờ. Tuyết Tròn và Napoleon thảo luận hăng nhất. Nhưng
hai con này luôn luôn chống đối nhau: hễ con này đưa ra ý kiến gì là con kia
lập tức phản đối. Ngay cả khi vấn đề đã được quyết định rồi, như việc dành một
miếng đất nhỏ phía sau khu vườn làm chỗ dưỡng già, không ai có thể phản đối
chuyện đó, thì hai con này lại tranh luận gay gắt về việc loài nào, đến bao
nhiêu tuổi thì được nghỉ hưu. Các buổi Họp bao giờ cũng kết thúc bằng bài đồng
ca " Súc Sinh Anh quốc", còn buổi chiều thì chúng được nghỉ tự do.
Bọn lợn dành cái kho dụng cũ làm
tổng hành dinh. Buổi tối chúng học nghề mộc, nghề rèn và những nghề khác qua
những cuốn sách nhặt được trong toà nhà chính. Tuyết Tròn còn đưa những con
khác vào các tổ chức mà nó gọi là Ủy Hội Súc Sinh. Nó làm việc này một cách say
sưa, không biết mệt là gì. Nó đã thiết lập được Ủy Ban Trứng cho lũ gà mái, Ủy
Ban Chăm Sóc Đuôi cho lũ bò, Hiệp Hội cải huấn các đồng chí thú hoang (mục đích
là cải tạo bọn chuột và thỏ rừng); Phong Trào giữ lông thật trắng cho bọn cừu,
vân vân và vân vân, đấy là chưa kể các tổ xoá nạn mù chữ nữa. Nói chung các dự
án của Tuyết Tròn đều không có kết quả. Việc cải tạo lũ thú hoang thất bại gần
như ngay từ đầu. Thái độ của chúng chẳng thay đổi tí nào, mà cư xử tốt thì
chúng lại càng láo thêm. Con mèo cũng có chân trong Hiệp Hội cải huấn và đã
họat động rất tích cực trong mấy ngày đầu. Có lần nó lên tận mái nhà nói chuyện
với mấy con chim sẻ đậu ngoài tầm với của nó. Nó bảo rằng bây giờ mọi loài đều
là đồng chí và nếu con sẻ nào muốn thì có thể đậu ngay lên chân trước nó; nhưng
bọn sẻ không dám lại gần.
Các lớp học đọc, học viết thu được
kết quả khả quan. Trước khi mùa thu về đa số các con vật trong trại đều đã
thoát nạn mù chữ ở những mức độ nhất định.
Bọn lợn đọc thông viết thạo. Lũ chó
cũng biết đọc, nhưng chúng chỉ đọc mỗi Bảy Điều Răn mà thôi. Con dê tên là
Muriel đọc thông hơn lũ chó nên buổi tối nó thường đọc cho những con khác nghe
các mẩu báo nhặt được trên đống rác. Lừa Benjamin đọc nhanh không kém gì lũ
lợn, nhưng nó chẳng đọc cái gì bao giờ. Nó bảo chẳng thấy có gì đáng đọc. Bà
Mập học thuộc cả bảng chữ cái nhưng không biết ghép vần. Chiến Sĩ không vượt
qua được chữ D. Nó thường lấy những cái móng to kềnh của mình để viết lên cát
những chữ cái A, B, C, D rồi đứng ngắm, tai cụp lại phía sau, thỉnh thoảng lại
vẫy vẫy bờm, cố gắng nhớ xem sau đó là chữ gì, nhưng chẳng bao giờ nhớ ra. Đôi
khi nó cũng thuộc được các chữ cái E, F, G, H, nhưng bao giờ cũng vậy, hễ thuộc
mấy chữ đó thì lại quên các chữ A, B, C, D. Cuối cùng nó đành thoả mãn với bốn
chữ cái đó và ngày nào cũng viết một hai lần để rèn trí nhớ. Mollie chỉ học năm
chữ cái ghi đủ tên nó mà thôi. Nó thường lấy cành cây nhỏ để xếp các chữ đó rồi
trang trí thêm bằng một vài bông hoa, sau đó đi vòng quanh để ngắm.
Những con khác không vượt qua chữ A.
Những loài ngu hơn như cừu, gà và vịt không thể thuộc được Bảy Điều Răn. Sau
khi suy nghĩ, Tuyết Tròn tuyên bố rằng có thể rút Bảy Điều Răn thành một cách
ngôn như sau: "Bốn chân tốt, hai chân xấu". Nó bảo đấy chính là
nguyên lí cơ bản của Súc Sinh Kinh. Chỉ cần nắm vững cách ngôn này thì không
còn sợ gì ảnh hưởng của con người nữa. Bọn gà vịt phản đối vì cho rằng chúng
chỉ có hai chân, nhưng Tuyết Tròn đã chứng minh không phải như vậy.
"Cánh chim, thưa các đồng
chí", Tuyết Tròn nói, "là cơ quan để vận động chứ không phải để cầm
nắm. Cánh cũng là chân thôi. Đặc trưng để phân biệt với Giống Người là bàn tay,
mọi việc xấu xa đều do đôi bàn tay của chúng làm hết."
Bọn gà vịt không hiểu hết bài thuyết
pháp tràng giang đại hải đó, nhưng chúng đồng ý với cách giải thích của Tuyết
Tròn và tất cả những con vật ngu si hơn lại phải học thuộc lòng cách ngôn mới.
BỐN CHÂN TỐT, HAI CHÂN XẤU được viết to hơn, bên trên Bảy Điều Răn. Khi đã
thuộc lòng rồi thì lũ cừu tỏ ra rất khoái cách ngôn này, mỗi khi nằm nghỉ là
chúng lại đồng thanh tụng "Bốn chân tốt, hai chân xấu! Bốn chân tốt, hai
chân xấu!" và cứ thế hàng giờ liền không biết mệt.
Napoleon không quan tâm đến các ủy
hội của Tuyết Tròn. Nó bảo rằng giáo dục thế hệ trẻ quan trọng hơn công tác vận
động những con đã trưởng thành. Hai con chó cái Jessie và Bluebell đẻ được chín
con chó con khoẻ mạnh ngay sau vụ thu hoạch. Napoleon bắt lũ chó con ngay khi
chúng vừa cai sữa, nó bảo sẽ chịu trách nhiệm giáo dục bọn trẻ. Nó đem lũ chó
con giấu trên gác xép, bên trên kho dụng cụ, phải có thang mới trèo lên được,
và giữ chúng ở đó kín đến nỗi dần dần không con nào còn nhớ đến lũ chó con ấy
nữa.
Chuyện mất sữa không còn là bí mật.
Bọn lợn đem trộn vào cám ăn hàng ngày. Những quả táo đầu mùa đã chín, ngày nào
cũng có quả rụng trên đám cỏ trong vườn. Mọi con vật đều nghĩ là sẽ đem chia
đều, nhưng một hôm có lệnh nhặt táo rụng rồi đem vào nhà kho dụng cụ để dành
riêng cho lũ lợn. Có mấy con phàn nàn về chuyện này, nhưng không đi đến đâu. Về
vấn đề này thì lũ lợn, kể cả Tuyết Tròn và Napoleon, đều thống nhất quan điểm.
Chỉ Điểm được cử đi làm công tác tư tưởng.
"Thưa các đồng chí", Nó
nói, "Tôi hy vọng là các đồng chí không nghĩ rằng loài lợn chúng tôi làm
như thế là do ích kỉ và đặc quyền đặc lợi chứ? Nhiều đồng chí lợn cũng ngán sữa
và táo lắm. Tôi cũng chẳng thích gì hai thứ đó. Mục đích của chúng tôi khi ăn
những thứ đó chỉ là nhằm bảo vệ sức khoẻ mà thôi. Sữa và táo (Thưa các đồng
chí, khoa học đã chứng minh) có chứa nhiều chất cực kì cần thiết cho sức khoẻ
loài lợn. Loài lợn chúng tôi làm công việc trí óc. Chúng tôi nắm toàn bộ công
tác tổ chức và quản lí trang trại này. Vì sự phồn vinh của các đồng chí mà
chúng tôi phải làm việc cả ngày lẫn đêm. Chúng tôi uống sữa và ăn táo vì lợi
ích của chính các đồng chí đấy. Các đồng chí có tưởng tượng được chuyện gì sẽ
xảy ra nếu loài lợn chúng tôi không cáng đáng nổi nhiệm vụ không? Lão Jones sẽ
quay về! Vâng, lão Jones sẽ quay về! Chắc chắn là như thế, thưa các đồng
chí", Nó van vỉ gào to, vừa gào vừa nhảy từ phải sang trái, đuôi vẫy nhặng
lên, "Chắc chắn là không ai trong chúng ta muốn lão Jones quay về rồi, có
phải thế không ạ?"
Chắc chắn
là không một con vật nào muốn lão Jones quay về rồi. Đặt vấn đề theo cách đó
thì không con nào dám mở miệng ra nữa. Sức khoẻ loài lợn là việc hệ trọng,
chuyện đó không cần phải bàn. Thế là chúng đi đến thống nhất mà không bàn cãi
thêm là sữa và táo rụng (khi vào mùa thì toàn bộ) chỉ để dành cho riêng loài
lợn dùng mà thôi.
Chương 4
Đến cuối mùa hè thì tin tức về Trại
Súc Vật đã bay ra khắp nửa nước. Ngày nào Tuyết Tròn và Napoleon cũng cử từng
đàn bồ câu thâm nhập vào các trang trại khác để tuyên truyền về cuộc Khởi Nghĩa
và dạy hát bài "Súc Sinh Anh quốc".
Trong khi đó ông Jones hầu như ngày
nào cũng ngồi trong nhà hàng Sư tử Đỏ ở Willingdon để than van với bất cứ người
chịu chuyện nào về việc bị lũ súc vật vô tích sự cướp đoạt mất tài sản. Các chủ
trại khác tỏ ra thông cảm, nhưng lại chẳng chịu giúp đỡ gì cả. Không những thế,
trong thâm tâm bọn đó lại còn tìm cách lợi dụng tai hoạ của lão nữa. May là chủ
hai điền trang tiếp giáp với Trại Súc Vật luôn luôn bất hoà với nhau. Một trại
có tên là Trại Cáo, một trại lớn nhưng bị bỏ bê, canh tác theo lối cũ, nhiều
chỗ cây mọc um tùm, các bãi chăn thả bị dẫm nát, hàng rào thì xiêu vẹo. Chủ
trang trại này, ông Pilkington là một người vô lo, dùng phần lớn thì giờ vào
việc săn bắn và câu cá. Trang trại thứ hai tên là Trại Keo, nhỏ hơn nhưng được
chăm sóc kĩ lưỡng hơn. Chủ trang trại này là ông Frederick, một người thô bạo,
sắc sảo, thường xuyên dính líu vào các vụ kiện cáo và nổi tiếng là một tay lừa
gạt có hạng. Hai vị này ghét nhau đến nỗi không thể tìm được tiếng nói chung
ngay cả trong việc bảo vệ quyền lợi của chính mình.
Nhưng cuộc Khởi Nghĩa ở Trại Súc Vật
đã làm cả hai hoảng sợ và họ tìm mọi cách ngăn không cho tin tức ở đó lọt vào
trang trại của mình. Đầu tiên họ giả vờ chế giễu chuyện bọn súc vật tự điều
hành trang trại. "Chỉ ba bảy hai mốt [1] ngày là toi", họ bảo. Họ
tung tin là lũ súc vật trong Điền Trang (họ khăng khăng gọi là Điền Trang chứ
không chịu chấp nhận tên Trại Súc Vật) suốt ngày tranh giành nhau và chẳng mấy
nữa rồi sẽ chết đói thôi. Một thời gian sau, thấy lũ súc vật không chết đói,
Frederick và Pilkington liền đổi giọng và bắt đầu nói về những cảnh tượng vô
luân không thể tưởng tượng được đang diễn ra trong Trại Súc Vật. Họ bảo rằng lũ
súc vật ăn thịt lẫn nhau, chúng tra tấn nhau bằng móng sắt nung đỏ, còn những
con cái thì thành vợ chung. "Chống lại qui luật của Tự Nhiên thì kết quả
như vậy đấy", Frederick và Pilkington nói.
Nhưng chuyện đó cũng chẳng có mấy
người tin. Lời đồn về một trang trại kì lạ, nơi con người bị đuổi đi và các con
vật tự điều hành lấy công việc tiếp tục được truyền tụng một cách tù mù và
xuyên tạc, suốt năm đó làn sóng bạo động lan tràn khắp cả vùng nông thôn. Những
con bò đực vốn dễ bảo bỗng trở nên hung dữ, cừu thì phá đổ hàng rào và dẫm nát
đồng cỏ, bò cái hất đổ xô sữa, ngựa đua thì không chịu nhảy qua hàng rào mà hất
tung kị sĩ lên cao. Nhạc điệu và lời của bài "Súc Sinh Anh quốc" phổ
biến đến tận hang cùng ngõ hẻm. Nó được truyền bá với một tốc độ nhanh chưa
từng thấy. Bài hát làm cho con người phát điên lên được, nhưng họ lại giả đò
như đấy chỉ là một trò lố bịch. Ngay cả súc vật cũng không thể nào lại hát một
thứ rác rưởi đê tiện như thế được, họ bảo. Con vật nào bị bắt quả tang đang hát
bài đó lập tức bị đánh đòn tại trận. Thế mà vẫn không cấm tuyệt được. Sáo hót
bài đó trên hàng rào, bồ câu gù trên cây, bài hát đi vào tiếng dế nỉ non, vào
cả tiếng chuông nhà thờ nữa. Con người run lên mỗi lần nghe thấy nó, họ như
nghe thấy điềm báo trước tai họa của chính mình.
Đầu tháng mười, khi đã thu hoạch và
đưa hết ngũ cốc vào kho, một số đã được đập thì có một đàn bồ câu bất ngờ xé
không khí lao tới đậu xuống sân trang trại, dáng vẻ vô cùng xúc động. Ông Jones
cùng với gia nhân và khoảng nửa tá thanh niên của Trại Cáo và Trại Keo đã vượt
qua cổng lớn và đang tiến vào trang trại này. Ông Jones lăm lăm khẩu súng đã
lên đạn, còn những người khác đều được trang bị bằng gậy gộc. Không còn nghi
ngờ gì nữa, họ muốn tái chiếm trang trại.
Nhưng lũ súc vật không bị bất ngờ,
ngược lại, chúng đã chuẩn bị cho sự kiện này từ lâu. Tuyết Tròn, trước đây đã
từng nghiên cứu kĩ lưỡng cuốn sách viết về các chiến dịch của Julius Ceasar [2]
, mà nó tìm thấy trong ngôi nhà chính, được phân công tổ chức phòng vệ. Nó lập
tức đưa ra các mệnh lệnh và các con vật mau chóng chiếm lĩnh các vị trí được
phân công.
Tuyết Tròn ra lệnh tấn công ngay khi
nhóm người kia vừa tiến gần đến dãy nhà trong trang trại. Ba mươi lăm con bồ
câu xuất kích, chúng bay qua bay lại và ỉa vào đầu đám người phía dưới, trong
khi họ mải tránh và phủi thì lũ ngỗng, phục kích sẵn sau hàng rào xông ra và
cắn vào chân. Nhưng đấy mới chỉ là đòn chiến thuật có tác dụng làm rối loạn
hàng ngũ đối phương bởi vì người ta dễ dàng dùng gậy để xua lũ ngỗng đi. Mũi
tấn công thứ hai được đưa ra mặt trận. Muriel, Benjamin và toàn thể bầy cừu do
chính Tuyết Tròn dẫn đầu xông lên vây chặt đám người rồi lao vào húc lấy húc để
trong khi Benjamin quay lưng về phía họ và đá vung vít. Nhưng lần này lũ súc
vật cũng không thắng, gậy và giày đinh mà con người sử dụng là những vũ khí quá
mạnh đối với chúng. Thấy tình thế bất lợi, Tuyết Tròn hí lên một tiếng và đấy
chính là tín hiệu tạm lui binh, lũ súc vật vội tháo chạy vào trong sân.
Tiếng hò reo chiến thắng vang lên.
Những người tấn công thấy quân thù đã bỏ chạy như dự kiến nên chẳng cần chỉnh
đốn hàng ngũ, vội vàng xông lên truy kích. Đúng như Tuyết Tròn đã dự liệu. Khi
người đã vào hết trong sân thì ba con ngựa, ba con bò và tất cả lũ lợn còn lại
trước đó đã nằm mai phục sẵn trong chuồng bò liền lao ra cắt đứt đường rút lui.
Tuyết Tròn hạ lệnh tổng công kích. Chính nó lao thẳng vào ông Jones. Ông Jones
trông thấy nó lao tới liền bóp cò. Phát đạn ghém đã làm Tuyết Tròn bị thương
dọc sống lưng, máu chảy lênh láng và làm chết một con cừu. Không lưỡng lự một giây,
Tuyết Tròn cứ thế đâm thẳng tấm thân tạ rưỡi của nó vào chân ông Jones. Ông ngã
sóng soài lên đống phân, súng văng ra xa. Nhưng khủng khiếp nhất là Chiến Sĩ,
nó đứng trên hai chân sau và giáng xuống đầu người bằng những chiếc móng sắt.
Cú nện đầu tiên của nó khiến anh chàng dọn chuồng ngựa của Trại Cáo ngã vật ra
đất, bất tỉnh nhân sự. Có mấy người vứt gậy và bỏ chạy. Không bỏ lỡ thời cơ, lũ
súc vật liền đuổi theo vòng quanh sân. Chúng húc bổng họ lên, rồi cắn, đá, đạp.
Không có con nào trong trại là không tham gia báo thù theo cách của mình. Ngay
con mèo cũng nhảy từ mái chuồng bò xuống vai anh chăn bò rồi vừa cắn vào cổ vừa
gào như lên cơn động cỡn. Vừa thấy có thể rút lui được là mọi người vội chạy
khỏi sân để ra đường lớn. Thế là thâm nhập chưa được năm phút, họ đã phải tháo
chạy, phía sau là lũ ngỗng vừa cắn vào đùi vừa rú rít đuổi theo.
Có một người không chạy thoát. Trong
sân, Chiến Sĩ đang cố lật anh dọn chuồng ngựa vẫn nằm úp mặt xuống bùn lên. Anh
chàng không hề động đậy.
"Hắn chết rồi!", Chiến Sĩ
buồn bã thốt lên, "Tôi đâu có định làm như vậy. Tôi quên mất là mình đeo
móng sắt. Bây giờ ai mà tin là tôi không chủ ý chứ?"
"Thôi đừng có ủy mị, đồng
chí!", Tuyết Tròn nói, máu trên lưng nó vẫn rỉ ra từng lúc, "Chiến
tranh là chiến tranh. Người tốt là người đã chết."
"Tôi không có ý giết, ngay cả
giết người", Chiến Sĩ cứ nhắc đi nhắc lại như thế, mắt đẫm lệ.
"Thế Mollie đâu nhỉ?", Có
con nào đó hỏi.
Đúng là không thấy Mollie đâu. Ban
đầu chúng rất lo, chúng sợ rằng Mollie có thể đã bị thương hoặc bị bọn người
kia bắt theo cũng nên. Cuối cùng cô nàng đã được tìm thấy đang trốn trong
chuồng ngựa, đầu rúc trong đống rơm. Nó đã bỏ trốn ngay khi nghe thấy tiếng
súng nổ. Trong khi các con vật đi tìm Mollie thì anh chàng dọn chuồng ngựa hồi
tỉnh và trốn mất.
Lũ súc vật đã tụ tập lại đầy đủ,
chúng vô cùng phấn khích, tranh nhau nói. Lễ mừng chiến thắng được tổ chức ngay
lập tức. Cờ được kéo lên và chúng hát bài "Súc Sinh Anh quốc" mấy lần
liền, sau đó chúng làm lễ mai táng con cừu tử trận và trồng trên mộ của nó một
bụi táo gai. Tuyết Tròn đọc một bài diễn văn ngay bên cạnh mộ chiến sĩ trận
vong, nhấn mạnh rằng mọi con vật đều phải sẵn sàng hi sinh cho Trại Súc Vật khi
cần.
Lũ súc vật nhất trí lập ra phần
thưởng cho những chiến công vừa qua, đấy là danh hiệu Súc vật Anh hùng hạng
nhất, danh hiệu này được trao ngay cho Tuyết Tròn và Chiến Sĩ. Phần thưởng là
một chiếc huy chương đồng (chính là tấm đồng trang trí yên ngựa tìm được trong
kho dụng cụ) được đeo vào ngày lễ và chủ nhật. Danh hiệu Súc vật Anh hùng hạng
hai được trao cho con cừu đã hy sinh.
Chúng
tranh cãi rất lâu về chuyện đặt tên cho chiến thắng. Cuối cùng chúng quyết định
gọi là Chiến dịch Chuồng bò vì cuộc phục kích diễn ra trong chuồng bò. Chúng
tìm được khẩu súng của ông Jones trong đám bùn, đạn thì trong trại vẫn có sẵn.
Khẩu súng được mang đặt dưới chân cột cờ, giả như súng đại bác ở các nơi khác,
chúng sẽ bắn súng mừng hai lần trong một năm, một lần vào dịp hạ chí để mừng
ngày Khởi Nghĩa, lần khác vào ngày hai mươi tháng mười để mừng Chiến Thắng.
Chương 5
Càng đến gần mùa đông thì Mollie
càng trở nên khó chịu. Sáng nào cô nàng cũng đi làm muộn, viện cớ là ngủ quên;
ngoài ra nó còn phàn nàn là bị những căn bệnh lạ, mặc dù vẫn ăn như thuồng
luồng vậy. Nó thường tìm mọi cách để trốn việc và chạy ra hồ nước, thẫn thờ
đứng ngắm bóng mình. Nhưng cứ như tin đồn thì nó còn mắc những khuyết điểm
nghiêm trọng hơn nhiều. Một hôm, nó đang đi dạo trong sân, vô tư vẫy cái đuôi
dài, miệng nhai một nắm cỏ thì Bà Mập kéo sang một bên và bảo:
"Mollie, chị có vài điều cần
nói với em. Sáng nay chị trông thấy em đứng bên hàng rào giữa Trại Súc Vật và
Trại Cáo. Bên kia hàng rào là người của nhà Pilkington. Dù đứng rất xa nhưng
chị chắc chắn là lúc đó hắn ta đang nói chuyện với em, chị nhìn thấy rõ như
thế, còn em thì đã cho nó vỗ vỗ vào hai bên má. Mollie, chuyện đó là thế
nào?"
"Anh ta không vỗ! Em không đứng
ở đó! Làm gì có chuyện đó!" - Mollie gào lên , hai chân nhảy dựng và nện
ầm ầm xuống mặt đất.
"Mollie, hãy nhìn thẳng vào mắt
chị đây! Em có dám thề với chị là gã đó chưa từng vỗ vào má em không?"
"Không có chuyện đó!",
Mollie nhắc lại, nhưng nó không dám nhìn Bà Mập và lập tức phóng ra đồng.
Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu Bà
Mập. Không nói cho con nào biết, nó từ từ tiến lại phía chuồng của Mollie và
lấy móng lật đống rơm trong chuồng lên. Bên dưới đống rơm có một cục đường và
mấy sợi ruy băng đủ màu sắc.
Ba ngày sau Mollie biến mất. Sau mấy
tuần vẫn chưa có tin tức gì, nhưng rồi lũ bồ câu báo cáo lại là đã nhìn thấy
Mollie ở bên ngòai Willingdon. Nó kéo một cái xe nhỏ, sơn hai màu đen-đỏ lộng
lẫy, đứng nghỉ gần một quán bia. Một gã đàn ông béo tốt, mặt đỏ gay, mặc quần
ca rô, ống chẽn, đi ghệt; có vẻ như là chủ quán; đang vừa vỗ về vừa đút cho nó
miếng đường. Bờm nó mới được cắt chải cẩn thận, đám bờm trên trán có thắt một
dải ruy băng màu đỏ tươi. Theo những con bồ câu nói lại thì trông nó có vẻ thoả
mãn. Từ đó không con nào nhắc đến nó nữa.
Bước sang tháng giêng, thời tiết trở
nên vô cùng khắc nghiệt. Đất rắn như đá, không thể làm được việc gì nữa. Các
cuộc Họp được chuyển vào nhà kho lớn, lũ lợn chuyên tâm vào việc lập kế hoạch
cho vụ tới. Chúng nhất trí rằng vì lũ lợn thông minh nhất nên sẽ chịu trách
nhiệm về đường lối chung của trại, nhưng quyết định của chúng phải được thông
qua với đa số tuyệt đối. Mọi việc sẽ vô cùng hoàn hảo nếu như Tuyết Tròn và
Napoleon không thường xuyên chống đối nhau. Hai con này bất đồng nhau về mọi
vấn đề mỗi khi có dịp. Nếu con này bảo phải gieo nhiều lúa mạch hơn thì con kia
nhất định sẽ nói phải gieo nhiều yến mạch hơn; nếu một con nói cánh đồng nào đó
hợp với bắp cải thì con kia nhất định sẽ bảo vùng đó chỉ có thể trồng củ cải.
Con nào cũng có một số ủng hộ viên cho nên các cuộc tranh luận thường diễn ra
rất quyết liệt. Do biết ăn nói nên Tuyết Tròn thường giành được đa số trong các
cuộc Họp, còn ở bên ngoài thì đa số lại ủng hộ Napoleon. Trung thành nhất với
Napoleon là bầy cừu. Thời gian gần đây lũ cừu thường tụng "Bốn chân tốt,
hai chân xấu" khi có lí do cũng như chẳng cần lí do gì và các cuộc Họp
cũng thường bị gián đoạn là vì thế. Đặc biệt là cứ đến những đoạn quan trọng
nhất trong các bài phát biểu của Tuyết Tròn là y như rằng lũ cừu lại gào lên
"Bốn chân tốt, hai chân xấu". Tuyết Tròn đã nghiên cứu kĩ tạp chí
"Trồng trọt và chăn nuôi" tìm được trong ngôi nhà chính, trong đầu nó
có cả một mớ kế hoạch cải cách và hiện đại hóa công tác sản xuất. Nó kể về hệ
thống thoát nước cho đồng ruộng, lò ủ chua, phân phốt phát cho cả trại nghe, nó
còn soạn ra một sơ đồ đi vệ sinh, sao cho từng con "đi" mỗi lần ở một
nơi khác nhau cho đỡ tốn công vận chuyển sau này. Napoleon thì ngược lại, không
soạn gì cả, nhưng lại rỉ tai các con khác rằng Tuyết Tròn chỉ nói nhảm và có vẻ
như đang đợi thời cơ để ra tay. Nhưng cuộc tranh chấp dữ dội nhất giữa hai con
là về việc xây dựng cối xay gió.
Trên cánh đồng cỏ, không xa những
dãy nhà của trại là mấy, có một cái gò nhỏ, cũng là chỗ cao nhất trong trại.
Sau khi đã khảo sát, Tuyết Tròn tuyên bố rằng đây là khu vực tốt nhất để xây
dựng một chiếc cối xay gió, chúng sẽ lắp lên đó một máy phát điện để cung cấp
điện cho toàn trại. Các chuồng rồi sẽ có đèn điện, mùa đông thì sẽ có lò sưởi,
chưa nói đến việc sẽ dùng điện để chạy máy cưa, máy thái cỏ, máy thái củ cải
đỏ, máy vắt sữa nữa. Lũ súc vật chưa từng được nghe chuyện như thế bao giờ
(trại này vốn thuộc loại lạc hậu, chỉ có các máy đơn giản nhất), chúng vô cùng
kinh ngạc lắng nghe Tuyết Tròn thao thao bất tuyệt về những chiếc máy kì diệu
sẽ thay chúng làm việc trong khi chúng có thể ung dung gặm cỏ ngoài đồng hoặc
ngồi đọc sách và tranh luận để nâng cao dần trí óc.
Chỉ vài tuần sau Tuyết Tròn đã hoàn
tất các tài liệu kĩ thuật về dự án cối xay gió. Các bản vẽ chi tiết phần cơ khí
được soạn thảo dựa trên ba cuốn sách của ông Jones: "Một ngàn đồ vật hữu
dụng trong gia đình", "Tự làm thợ xây" và "Người bắt đầu
làm thợ điện cần biết". Tuyết Tròn dùng cái nhà kho, trước đây vốn là khu
ấp trứng, làm văn phòng vì ở đó có một cái nền phẳng bằng gỗ rất thích hợp cho
việc vẽ kĩ thuật. Tuyết Tròn ngồi trong đó hàng giờ liền. Nó lấy một hòn đá đè
lên trang sách cần thiết, một chân kẹp viên phấn; nó nhảy qua nhảy lại, vừa
nhảy vừa vẽ, đôi khi khoái quá lại rít lên khe khẽ. Dần dần, các bản vẽ bao gồm
rất nhiều trục và bánh răng xoắn xuýt lấy nhau xếp kín gần nửa gian nhà kho,
các con khác tuy chẳng hiểu gì nhưng vô cùng thán phục. Ngày nào các con vật
cũng đến xem các bản vẽ của Tuyết Tròn ít nhất một lần. Ngay cả lũ gà, vịt cũng
tới, nhưng đứng xa xa dòm vào để không đạp phải các hình vẽ bằng phấn. Chỉ có
Napoleon là không hề bận tâm. Nó phản đối ngay từ đầu. Mặc dù vậy, một hôm nó
đã đến kiểm tra dự án mà không báo cho con nào biết trước. Nó đi xung quanh khu
kho, rồi vào xem xét kĩ lưỡng các bản vẽ, hít chỗ này chỗ kia, rồi nhấc chân
lên tè vào đấy một bãi, sau đó nó bình thản đi ra mà không thèm nói một lời
nào.
Vì việc xây dựng cối xay gió mà trại
chia làm hai phái đối địch nhau. Tuyết Tròn không giấu giếm rằng việc xây cối
xay gió sẽ đòi hỏi một sự hy sinh to lớn. Phải khai thác, vận chuyển đá đến
công trường, rồi xây, sau đó mới lắp cánh quạt, động cơ và dây điện (làm sao
kiếm được những thứ đó thì Tuyết Tròn không nói). Nhưng nó vẫn khẳng định rằng
có thể hoàn tất công trình trong vòng một năm. Còn sau đó, nó tuyên bố, công
việc sẽ bớt đi rất nhiều và chúng sẽ chỉ phải làm ba buổi một tuần mà thôi.
Ngược lại, Napoleon cho rằng nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay là sản xuất
lương thực, nếu chúng phí thì giờ vào việc xây dựng cối xay gió thì chúng sẽ bị
chết đói. Lũ súc vật chia thành hai phe; một phe đưa ra khẩu hiệu: "Ủng hộ
Tuyết Tròn và ba ngày làm việc một tuần"; phe kia đưa ra khẩu hiệu:
"Ủng hộ Napoleon và no bụng". Chỉ có Benjamin là không tham gia phe
phái nào. Nó không tin là rồi đây thức ăn sẽ dư thừa, cũng chẳng tin là cối xay
gió sẽ giúp giảm công việc chân tay. Có cối xay hay không cối xay thì cũng thế
thôi, chúng đã sống thế nào thì rồi cũng sẽ sống như vậy, nghĩa là còn khổ.
Ngoài cối xay gió thì chúng còn
tranh cãi về việc phòng vệ nữa. Tất cả đều hiểu rằng tuy con người bị thua
trong Chiến dịch Chuồng bò nhưng nhất định họ sẽ đánh một trận nữa, trận này sẽ
dữ dội hơn, để giành lại trang trại cho ông Jones. Người ta nhất định sẽ làm
như thế vì tin đồn về trận đại bại của con người đã lan khắp vùng thôn quê và
lũ súc vật trong các trang trại khác nay trở nên ra bướng bỉnh hơn bao giờ hết.
Cũng như mọi khi, Tuyết Tròn và Napoleon không tìm được tiếng nói chung. Theo
Napoleon thì việc cần làm trước hết là tìm mua và tập sử dụng vũ khí nóng. Theo
Tuyết Tròn thì việc cấp bách hiện nay là cử những đàn bồ câu đến các trang trại
khác để kêu gọi các cuộc khởi nghĩa ở đó. Một con cho rằng nếu chúng không tự
phòng vệ được thì chúng nhất định sẽ bị người ta chinh phục, con kia thì nói
rằng nếu khởi nghĩa nổ ra khắp nơi thì không cần phòng vệ nữa. Các con vật nghe
Napoleon rồi nghe Tuyết Tròn, nhưng không quyết định được là con nào đúng, thực
ra cứ con nào đang nói là con ấy đúng, chúng chẳng có chính kiến gì hết.
Cuối cùng Tuyết Tròn đã hoàn tất
toàn bộ bản vẽ đồ án của mình. Trong cuộc Họp vào hôm chủ nhật, vấn đề xây dựng
cối xay gió được đưa ra biểu quyết. Tất cả lũ súc vật tập hợp đầy đủ trong nhà
kho lớn, Tuyết Tròn phát biểu trước và mặc dù thỉnh thoảng lại bị bày (bầy) cừu
chẹn họng, nó đã trình bày một cách đầy thuyết phục các lợi ích của cối xay
gió. Sau đó đến lượt Napoleon. Nó tuyên bố một cách nhẹ nhàng rằng cối xay gió
là chuyện nhảm nhí và khuyên mọi con chớ có ủng hộ dự án này; nó chỉ nói chừng
ba mươi giây rồi bình thản ngồi xuống, có vẻ như nó cũng chẳng thèm quan tâm
đến hiệu quả vừa tạo ra nơi thính giả. Tuyết Tròn đứng lên trên hai chân sau và
lập tức ứng khẩu một bài diễn văn hùng hồn nhằm thuyết phục những con khác biểu
quyết xây dựng cối xay gió, nó nói to đến nỗi át được cả bầy cừu. Trước đó
trang trại vốn chia làm hai phe đều nhau, nhưng lần này Tuyết Tròn đã thuyết
phục được đa số ủng hộ. Nó nói về tương lai của Trại Súc Vật, một tương lai vô
cùng tươi sáng, khi lao động chân tay không còn đè nặng lên lưng chúng nữa. Trí
tưởng tượng của nó còn đi xa hơn những máy thái rơm, máy thái củ cải. Điện, nó
nói, có thể chạy máy gặt đập, máy cày, máy bừa, máy cán; ngoài ra còn cung cấp
điện chiếu sáng, nước nóng, nước lạnh và lò sưởi cho tất cả các chuồng nữa. Có
thể thấy kết quả biểu quyết ngay trước khi Tuyết Tròn kết thúc bài diễn văn.
Nhưng đúng lúc đó thì Napoleon đứng lên, nó liếc xéo về phía Tuyết Tròn rồi rít
lên lanh lảnh như tiếng còi, chưa con nào nghe thấy tiếng rít như thế bao giờ.
Có tiếng chó sủa dữ dội ở bên ngoài,
rồi một bày chín con chó cực to, cổ đeo vòng đồng lao vào nhà kho. Chúng xông
thẳng vào Tuyết Tròn, may mà cu cậu tránh được cú táp của lũ chó. Tuyết Tròn
vội chạy ra ngoài còn bầy chó thì rượt theo sau. Lũ súc vật còn lại vô cùng
ngạc nhiên và hoảng sợ, cùng kéo nhau ra cửa để xem cuộc rượt đuổi. Tuyết Tròn
chạy băng qua đồng cỏ để ra đường cái lớn. Nó chạy thục mạng còn bày chó cũng
luôn bám sát ngay sau. Bất thình lình cu cậu bị trượt chân, cứ tưởng bầy chó sẽ
nhai nó đến nơi. Nhưng cu cậu lại gượng dậy được, lần này nó còn chạy nhanh hơn
và bầy chó vẫn bám sát. Tưởng chừng như một con chó đã đớp được đuôi Tuyết Tròn
rồi, may mà lúc ấy cu cậu kịp vẫy sang hướng khác. Nó lại tăng tốc và lần này
bỏ xa lũ chó được một đoạn, rồi nó chui qua được một lỗ thủng bên hàng rào.
Không con nào còn nhìn thấy Tuyết Tròn nữa.
Vô cùng hoảng sợ, lũ súc vật im lặng
quay lại nhà kho. Lũ chó săn cũng trở về ngay sau đó. Lúc đầu con nào cũng tự
hỏi: mấy con chó ấy ở đâu ra thế nhỉ? Nhưng sau đó thì điều ấy cũng chẳng phải
là bí mật nữa: mấy con này đã bị Napoleon bắt từ lúc còn bé rồi mang đi nuôi
riêng. Dù chưa phát triển hoàn toàn nhưng trông chúng đã to và dữ không khác gì
chó sói. Chúng đứng ngay cạnh Napoleon. Chúng cũng vẫy đuôi mừng Napoleon như
những con khác thường mừng ông Jones vậy.
Napoleon, được lũ chó hộ tống, bước
lên cái bục mà trước đây Thủ Lĩnh từng đứng nói chuyện. Nó tuyên bố rằng từ nay
các cuộc Họp vào ngày chủ nhật hàng tuần sẽ bị hủy bỏ. Nó nói rằng những cuộc
Họp đó là vô bổ, chỉ mất thì giờ. Từ nay các vấn đề liên quan đến công việc của
trang trại sẽ do một ủy ban toàn lợn và chủ tịch là Napoleon giải quyết. Đấy sẽ
là các cuộc Họp kín, nghị quyết sẽ được thông báo cho toàn trại sau. Các con
vật sẽ vẫn tiếp tục tập họp vào sáng chủ nhật để chào cờ, hát "Súc Sinh
Anh quốc" và nhận công việc sẽ làm trong tuần sau nhưng không còn các cuộc
thảo luận nữa.
Mặc dù bị sốc vì vụ trục xuất Tuyết
Tròn, quyết định hủy bỏ các cuộc thảo luận làm cả bọn thất vọng hoàn toàn. Một
số con chắc chắn sẽ phản đối nếu chúng tìm được lí lẽ khả dĩ. Ngay Võ Sĩ cũng
cảm thấy bất an. Nó dựng tai lên, rung rung bờm mấy lần, ý nghĩ cứ nhảy lung
tung và dù rất cố gắng nó vẫn chẳng biết phải nói thế nào. Nhưng mấy con lợn
thì dẻo miệng hơn. Bốn con lợn thịt ở hàng đầu gào lên phản đối, rồi cả bốn con
cùng nhảy dựng lên đồng thanh nói. Nhưng những con chó đứng quanh Napoleon đã
sủa vang và mấy con lợn đó đành phải ngậm miệng, im lặng về chỗ. Sau đó là lũ
cừu với bài tụng "Bốn chân tốt, hai chân xấu" kéo dài khoảng mười lăm
phút, chấm hết mọi cuộc bàn thảo. Chỉ Điểm được cử đi giải thích cho những con
khác.
"Thưa các đồng chí", Chỉ
Điểm nói, "Tôi hy vọng rằng tất cả các đồng chí đều đánh giá cao sự hy
sinh của đồng chí Napoleon khi đồng chí ấy đứng ra cáng đáng công việc lãnh đạo
trại. Các đồng chí đừng nghĩ rằng lãnh đạo là việc dễ! Ngược lại, đấy là trách
nhiệm cực kì nặng nề và khó khăn. Không có ai trong chúng ta tin tưởng một cách
sâu sắc bằng đồng chí Napoleon rằng tất cả các con vật sinh ra đều bình đẳng.
Đồng chí ấy sẽ rất sung sướng nếu các bạn có thể tự quyết định lấy số phận của
mình. Nhưng ai có thể đảm bảo rằng đôi khi các đồng chí sẽ không có quyết định
sai, khi đó trại của chúng ta sẽ ra sao? Ví dụ các đồng chí có thể đi theo tên
Tuyết Tròn với cái cối xay gió hão huyền của nó, đi theo một tên mà hành tung
không khác gì một tên tội phạm thì sao?"
"Anh ta đã chiến đấu một cách
dũng cảm trong Chiến dịch Chuồng bò", có con lên tiếng.
"Dũng cảm không chưa đủ",
Chỉ Điểm nói, "Lòng trung thành và sự phục tùng còn quan trọng hơn. Nói về
Chiến dịch Chuồng bò, tôi tin rằng sẽ đến lúc chúng ta thấy vai trò của Tuyết
Tròn đã bị thổi phồng một cách quá đáng. Kỉ luật, thưa các đồng chí, kỉ luật
sắt! Đấy là khẩu hiệu của chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Chỉ một bước đi
sai lầm là kẻ thù sẽ tấn công ngay. Chắc chắn là các đồng chí không muốn lão
Jones quay lại chứ?"
Lí lẽ của nó quả là khó bác bỏ được.
Chắc chắn là không có con nào muốn lão Jones quay về rồi, nếu những cuộc tranh
cãi vào các ngày chủ nhật tạo cớ cho lão Jones trở về thì chúng sẽ không tranh
cãi nữa. Chiến Sĩ đã suy nghĩ kĩ, nó thay mặt tất cả phát biểu:
"Đồng chí Napoleon nói gì cũng
đúng. Đồng chí Napoleon không bao giờ sai."
Từ đó ngoài "Tôi sẽ cố gắng hơn
nữa", Chiến Sĩ còn có thêm một khẩu hiệu mới: "Đồng chí Napoleon lúc
nào cũng đúng".
Thời tiết đã ấm dần lên, bắt đầu một
mùa cày mới. Khu kho, nơi Tuyết Tròn vẽ thiết kế cối xay gió đã bị đóng cửa và
có lẽ các bản vẽ cũng bị xoá rồi. Cứ mười giờ sáng chủ nhật là lũ súc vật lại
tụ tập trong nhà kho lớn để nhận nhiệm vụ sản xuất cho cả tuần sau. Sọ của Thủ
Lĩnh, nay chỉ còn xương được đào lên và đặt trên một gốc cây, cạnh khẩu súng,
dưới chân cột cờ. Sau khi dự lễ kéo cờ, lũ súc vật phải trịnh trọng bước đều
ngang qua nơi đặt sọ Thủ Lĩnh rồi mới đi vào nhà kho. Nay chúng cũng không còn
ngồi lẫn lộn với nhau như mọi khi nữa. Napoleon, Chỉ Điểm và Kế Tục, một con
heo có biệt tài trong việc soạn bài hát và làm thơ ngồi trên cái bục gỗ, chín
con chó làm thành nửa vòng tròn bao quanh, những con lợn khác ngồi ở phía sau.
Các con vật còn lại ngồi trên nền nhà. Napoleon đọc bản phân công công việc cho
tuần sau, rồi chúng hát một lần bài "Súc Sinh Anh quốc" và giải tán.
Ngày chủ nhật thứ ba, kể từ khi trục
xuất Tuyết Tròn, các con vật bỗng nghe Napoleon tuyên bố rằng nhất định phải
xây dựng cối xay gió. Nó không giải thích vì sao lại thay đổi quyết định, nhưng
bảo rằng nhiệm vụ này đòi hỏi mọi con phải cố gắng, hi sinh rất nhiều, không
lọai trừ khả năng là phải cắt bớt khẩu phần ăn hàng ngày nữa. Dự án đã được lập
đến từng chi tiết. Một ủy ban toàn lợn đã nghiên cứu dự án này suốt ba tuần
qua. Việc xây dựng cối xay gió và các công trình phụ trợ khác có thể kéo dài
trong hai năm.
Buổi
chiều, Chỉ Điểm đến giải thích cho từng con rằng thực ra Napoleon không chống
đối việc xây dựng cối xay gió. Ngược lại, ngay từ đầu nó đã ủng hộ dự án và
những bản vẽ mà chúng thấy trong khu ấp trứng chính là do Tuyết Tròn đánh cắp
của Napoleon. Cối xay gió là sáng kiến riêng của Napoleon. Thế thì tại sao -
một số con hỏi - trước đây Napoleon lại kiên quyết chống? Chỉ Điểm tỏ ra rất
ranh mãnh. Đấy - nó giải thích - đấy là sự khôn khéo của đồng chí Napoleon.
Đồng chí ấy chỉ giả vờ chống để có thể tống khứ Tuyết Tròn, kẻ thù nguy hiểm có
thể dẫn chúng vào con đường lầm lạc bất cứ lúc nào. Bây giờ, khi Tuyết Tròn
không còn thì chúng có thể tiến hành mà không sợ nó gây rối nữa. Đấy gọi là
chiến thuật, Chỉ Điểm nói. Nó nhắc đi nhắc lại: "Chiến thuật, các đồng
chí, đấy chính là chiến thuật" rồi vừa mỉm cười vừa nhảy xung quanh, đuôi
ngoáy tít. Lũ súc vật chẳng hiểu gì, nhưng Chỉ Điểm nói rất hùng hồn đồng thời
ba con chó đi cùng với nó bỗng sủa ầm lên, nên chúng đành chấp nhận mà không
hỏi gì thêm nữa.
Chương 6
Suốt năm đó lũ súc vật phải làm lụng
quần quật không khác gì nô lệ. Nhưng làm việc đối với chúng là một niềm vui,
chúng không tiếc sức, chúng sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh vì chúng biết rằng
chúng đang làm việc cho mình và cho con cháu mình chứ không phải cho một lũ
người lười biếng, trộm cắp nữa.
Suốt mùa xuân và mùa hè chúng đã làm
việc sáu mươi tư tiếng một tuần, nhưng sang tháng tám thì Napoleon tuyên bố là
sẽ làm cả chiều chủ nhật. Công việc này là hoàn toàn tự nguyện, nhưng con nào
vắng mặt sẽ bị cắt một nửa khẩu phần. Mặc dù vậy, chúng vẫn không hoàn thành
được kế hoạch đã đề ra. Năm nay thu hoạch kém hơn năm ngoái, chúng cũng không
kịp trồng củ cải trên hai khu ruộng vì cày bừa quá chậm. Có thể thấy trước rằng
mùa đông tới sẽ có nhiều khó khăn.
Việc xây dựng cối xay gió cũng gặp
không ít rắc rối. Ngay trong trang trại đã có một mỏ đá vôi tốt, cát cũng không
thiếu, còn xi măng thì sẵn trong kho; mọi vật tư xây dựng đều có đủ. Nhưng có
một vấn đề mà lũ súc vật không thể giải quyết ngay được, đấy là làm thế nào đập
được đá thành những viên có kích thước như ý. Có vẻ như chỉ có một cách là dùng
cuốc chim và xà beng; nhưng không con nào biết sử dụng những thứ ấy vì chúng
không thể đứng trên hai chân sau được. Phải mất mấy tuần lễ mày mò chúng mới
biết cách lợi dụng lực hút của trái đất. Những tảng đá lớn, không thể dùng được
nằm dưới đáy mỏ đá vôi. Lũ súc vật lấy dây quấn xung quanh những hòn đá, sau đó
cả bọn, nào bò, nào ngựa, nào cừu, bất cứ con nào có thể bám vào dây đều có
mặt, khi khẩn cấp cả bọn lợn cũng nắm lấy dây và kéo từ từ theo bờ dốc, rồi
chúng thả rơi hòn đá xuống đáy cho vỡ thành những mảnh nhỏ. Việc vận chuyển
những viên đá vỡ không phải là khó. Ngựa vận chuyển bằng xe con, cừu thì mang
từng viên một, ngay cả Muriel và Benjamin cũng tự thắng vào chiếc xe hai chỗ và
tham gia chuyên chở. Đến cuối mùa hè thì chúng đã kiếm được đủ đá, công việc xây
dựng bắt đầu, lũ lợn đóng vai giám sát và đốc công.
Nhưng việc xây dựng tiến hành rất
chậm, tốn rất nhiều công sức. Chúng thường mất cả ngày mới kéo được một hòn đá
lên đến đỉnh, nhưng khi thả xuống thì nó lại không vỡ. Không có Chiến Sĩ thì
chẳng có việc gì nên hồn, một mình nó làm bằng tất cả những con khác cộng lại.
Nếu hòn đá nặng quá, cả lũ bị nó lôi xuống thì bao giờ Chiến Sĩ cũng gắng hết
sức để kéo lên. Ai cũng phải thán phục khi nhìn thấy nó, chân bám chặt vào đất,
hơi thở gấp gáp, hai bên sườn đẫm mồ hôi, gắng sức kéo những hòn đá lên từng
bước một. Bà Mập thỉnh thoảng lại nhắc nó đừng có lao lực quá, nhưng nó không
nghe. Có vẻ như đối với nó thì hai câu khẩu hiệu: "Tôi sẽ cố gắng hơn
nữa" và "Đồng chí Napoleon lúc nào cũng đúng" chính là đáp án cho
mọi vấn đề. Nó lại nhờ con gà trống gọi dậy trước bốn mươi lăm phút chứ không
phải nửa tiếng như trước đây. Những lúc rảnh rỗi, phải nói là bây giờ chúng
không có nhiều thời giờ rỗi nữa, nó đi một mình ra mỏ đá, xếp những hòn vỡ lại
và kéo lên chỗ xây cối xay gió mà không cần con nào giúp.
Dù có phải làm việc vất vả nhưng đời
sống lũ súc vật trong mùa hè cũng không đến nỗi nào. Chúng không được ăn nhiều
hơn thời còn ông Jones, nhưng cũng không ít hơn. Bù lại, chúng chỉ phải làm để
tự nuôi mình, chúng không phải nuôi lũ người gồm những năm tên tham ăn nữa, chỉ
riêng điều này đã đủ động viên chúng vượt qua mọi khó khăn chồng chất. Thêm
nữa, cách làm của lũ súc vật nhiều khi lại hiệu quả và nhanh. Ví dụ việc làm cỏ
được chúng thực hiện nhanh, gọn hơn người nhiều. Bây giờ không còn con nào ăn cắp
nên cũng không cần chữa hàng rào và cổng giữa khu đồng cỏ và khu canh tác nữa.
Nhưng từ mùa hè đó bắt đầu có sự thiếu hụt, nay thứ này, mai thứ khác. Chúng
cần dầu đốt, đinh, dây thừng, bánh cho chó, sắt để làm móng ngựa, những thứ này
Trại Súc Vật không sản xuất được. Sau đó là đến hạt giống, phân hóa học, các
lọai công cụ như cuốc, xẻng, rồi còn thiết bị cho cối xay gió nữa. Không con
nào biết cách mua những thứ đó.
Một sáng chủ nhật, khi lũ súc vật
tập trung nhận nhiệm vụ cho tuần tới, Napoleon bỗng tuyên bố rằng nó đã quyết
định tiến hành một chính sách mới. Từ nay trở đi Trại Súc Vật sẽ buôn bán với
các trại lân cận: dĩ nhiên là không phải vì lợi nhuận mà chỉ để mua một số vật
dụng thật sự cần thiết thôi. Nhiệm vụ xây dựng cối xay gió là tối cần thiết đối
với chúng ta, nó nói như thế. Vì vậy nó đã thương thảo về việc bán cỏ và một
phần lúa mì vụ vừa rồi, sau này, nếu cần tiền nữa thì có thể phải bán trứng,
nhu cầu về trứng ở Willingdon là rất cao. Các bạn gà, Napoleon nói, phải lấy
làm tự hào vì đã có những đóng góp đặc biệt trong việc xây dựng cối xay gió.
Một lần nữa lũ súc vật lại cảm thấy
lo lắng. Không quan hệ với con người, không tham gia buôn bán, không sử dụng
tiền - chả lẽ đấy không phải là những quyết định được thông qua trong cuộc Họp
đầu tiên mừng chiến thắng sau khi đuổi được lão Jones ư? Tất cả mọi con đều nhớ
là chúng đã từng thông qua những quyết định ấy, hay ít nhất chúng nghĩ rằng
chúng nhớ là như thế. Bốn con lợn, những con đã đứng lên phản đối khi Napoleon
tuyên bố hủy bỏ các cuộc Họp cuối tuần lại định lên tiếng, nhưng chúng phải vội
vã ngậm miệng vì bầy chó đã sủa ầm ĩ lên rồi. Cũng như mọi khi, lũ cừu lại tụng
"Bốn chân tốt, hai chân xấu!" và mọi sự đâu vẫn hoàn đấy. Cuối cùng
Napoleon giơ chân lên đề nghị trật tự và tuyên bố là nó đã giải quyết ổn thỏa
mọi chuyện rồi. Không con nào phải tiếp xúc với loài người, việc đó thật chẳng
hay ho gì. Nó sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về công việc nặng nề đó. Một luật
sư hiện sống ở Willingdon tên là Whymper đã đồng ý làm trung gian giữa Trại Súc
Vật và các trang trại lân cận, ông ta sẽ đến nhận nhiệm vụ vào các buổi sáng
thứ hai hàng tuần. Giống như mọi khi, Napoleon kết thúc bài diễn văn bằng cách
hô khẩu hiệu "Trại Súc Vật muôn năm" và sau khi hát bài "Súc
Sinh Anh quốc", lũ súc vật giải tán.
Sau đó Chỉ Điểm lại đi một vòng
quanh trại để công tác tư tưởng. Nó cam đoan rằng quyết định không buôn bán và
không sử dụng tiền chưa hề được đưa ra biểu quyết chứ đừng nói là thông qua.
Đấy chỉ là chuyện bịa đặt, mà nếu theo dõi từ khởi kì thủy thì có thể do Tuyết
Tròn bịa ra cũng nên. Nhưng một số con vẫn còn chưa tin, thế là Chỉ Điểm hỏi:
"Đồng chí có chắc là không tưởng tượng ra như thế chứ? Đồng chí có tài
liệu nào khẳng định chuyện đó không? Quyết định đó được ghi ở đâu ?". Chắc
chắn là các quyết định đó không được ghi chép ở đâu cả cho nên cuối cùng lũ súc
vật tin là chúng đã lầm.
Thứ hai nào ông Whymper cũng đến
trang trại. Ông là một luật sư dáng người nhỏ nhắn, để tóc mai dài, mới bắt đầu
đi vào làm ăn, nhưng khá ranh mãnh, nhận ra ngay rằng nhất định Trại Súc Vật sẽ
cần một người môi giới và tiền hoa hồng dĩ nhiên là phải "đậm". Lũ
súc vật sợ Whymper và tìm cách tránh càng xa càng tốt. Dù sao thì việc Napoleon
đứng trên bốn chân ra lệnh cho Whymper đứng trên hai chân cũng tạo ra trong
lòng chúng niềm tự hào chính đáng và phần nào xoa dịu được phản ứng đối với
chính sách mới. Quan hệ của chúng với giống người đã không hoàn toàn như trước
đây nữa. Lòng thù hận của giống người đối với Trại Súc Vật không những không
giảm mà còn tăng vì nó ngày càng thịnh vượng hơn. Ai cũng tin là trước sau gì
thì cái trại này cũng phá sản mà thôi, còn cối xay gió thì thất bại là cái
chắc. Họ thường tụ tập trong các quán bia rồi vẽ các sơ đồ để chứng minh rằng
cối xay gió nhất định sẽ sập, mà nếu không sập thì cũng sẽ chẳng hoạt động
được. Nhưng dù không thích, họ vẫn phải nể lũ súc vật vì chúng quản lí trang
trại khá hiệu quả. Chứng cớ là họ đã bắt đầu gọi trại này là Trại Súc Vật và đã
thôi giả đò là nó vẫn mang tên là Điền Trang. Họ cũng không còn ủng hộ ông Jones
nữa, ông này đã mất hết hy vọng chiếm lại được trang trại và đã đi làm ăn ở nơi
khác rồi. Tuy hiện nay mọi quan hệ giữa Trại Súc Vật với thế giới bên ngoài đều
thông qua Whymper, nhưng người ta đồn rằng Napoleon sắp sửa kí kết hợp đồng
thương mại hoặc là với Trại Cáo của Pilkington hoặc là với Trại Keo của
Frederick, nhưng thiên hạ cũng nói rằng sẽ không có chuyện kí với cả hai trại
cùng một lúc.
Cũng khoảng thời gian đó lũ lợn đột
ngột chuyển vào sống trong toà nhà chính. Lần này lũ súc vật cũng cho rằng ngay
từ những ngày đầu tiên chúng đã thông qua quyết định là không con nào được dọn
vào sống trong ngôi nhà chính. Chỉ Điểm lại thuyết phục được chúng rằng chúng
đã lầm. Loài lợn là bộ óc của cả trại, nó nói, cho nên cần phải dành cho các
đồng chí ấy những chỗ yên tĩnh để làm việc. Lãnh tụ (thời gian gần đây nó bắt
đầu gọi Napoleon là lãnh tụ) phải sống ở một nơi xứng đáng chứ không thể cứ
sống mãi trong chuồng heo được. Tuy vậy một số con tỏ ra lo lắng khi nghe nói
rằng lũ lợn không những ăn trong bếp và nghỉ trong phòng khách mà còn ngủ cả
trên giường nữa. Chiến Sĩ vẫn nói "Đồng chí Napoleon lúc nào cũng
đúng", nhưng Bà Mập thì cho rằng chắc chắn là có qui định cấm ngủ trên
giường nên đã đi ra đầu hồi nhà kho để xem Bảy Điều Răn. Nhưng nó chỉ nhận được
mặt chữ chứ không thể ghép vần được, nó đành đi tìm Muriel.
"Muriel", Bà Mập bảo,
"đọc cho tôi nghe Điều Răn Thứ Tư. Có phải là không bao giờ được ngủ trên
giường không?"
Muriel phải đánh vần mãi mới xong.
"Điều Răn này viết: Không con
vật nào được ngủ trên giường có trải dra", Muriel nói.
Thật là kì, Bà Mập nhớ là Điều Răn
Thứ Tư đâu có nói khăn trải giường, nhưng nếu đã ghi rõ trên tường như thế thì
chắc là thế thôi. Đúng lúc đó Chỉ Điểm cùng với hai hay ba con chó vô tình đi
ngang qua.
"Thưa các đồng chí", nó
nói, "tôi nghĩ rằng các đồng chí biết là loài lợn chúng tôi đã ngủ trên
giường rồi? Tại sao lại không nhỉ? Chả lẽ các đồng chí lại cho rằng có qui định
cấm ngủ trên giường à? Giường là gì,chỉ là chỗ để nằm ngủ mà thôi. Nói đúng ra
thì một ổ rơm trong chuồng cũng là giường. Qui định là cấm ngủ trên khăn trải,
vì đấy là sản phẩm của con người. Chúng tôi đã bỏ hết khăn trải giường đi rồi,
bây giờ chúng tôi chỉ dùng chăn thôi. Giường phải nói là rất tiện! Nhưng cũng
không phải là quá xa xỉ, tôi có thể nói với các đồng chí rằng đấy chính là thứ
cần cho những người làm việc trí óc như chúng tôi. Chả lẽ các đồng chí lại
không muốn cho chúng tôi được nghỉ ngơi hay sao? Chả lẽ các đồng chí lại muốn
chúng tôi kiệt sức hay sao? Chắc chắn là không có ai trong các đồng chí muốn
lão Jones quay lại chứ?"
Bọn súc vật khẳng định với nó rằng
chúng không nghĩ như vậy và từ đó cũng không con nào còn nhắc đến việc lũ lợn
ngủ trên giường nữa. Mấy ngày sau có thông báo rằng từ nay trở đi loài lợn sẽ
dậy muộn hơn những loài khác một tiếng, lần này thì không có con nào phàn nàn
gì cả.
Mùa thu tới, lũ súc vật tuy mệt
nhưng vui. Năm qua là một năm vất vả, phải bán một phần cỏ và ngũ cốc nên dự
trữ cho mùa đông không được dư giả lắm, nhưng cối xay gió đã đền bù mọi công
khó của chúng. Cối xay gió đã xây dựng được gần một nửa rồi. Sau vụ thu hoạch
thời tiết rất thuận lợi, lũ súc vật làm việc miệt mài chưa từng thấy, chúng sẵn
sàng đi lại, khuân vác suốt ngày miễn là bức tường cứ ngày một cao thêm, dù chỉ
một ít. Ban đêm Chiến Sĩ còn tranh thủ làm thêm một, hai tiếng dưới ánh trăng.
Lúc rảnh rỗi lũ súc vật thường đi dạo xung quanh cái công trình xây dựng đó,
ngắm nhìn những bức tường đứng thẳng và chắc chắn; rồi tự hỏi chả lẽ chúng đã
xây được cái công trình tráng lệ như thế này ư. Chỉ có Benjamin là vẫn như cũ,
nó chẳng nói gì, ngoại trừ câu cửa miệng là lừa sống dai lắm.
Tháng mười một bắt đầu có gió tây
nam. Việc xây dựng bị ngưng trệ vì trời ẩm quá, không thể trộn vữa được. Một
đêm gió mạnh đến nỗi mái nhà tốc ngói, tường cũng như muốn lung lay sắp đổ. Lũ
gà thức giấc và kêu quang quác vì cả bọn cùng mơ thấy như có tiếng súng nổ ở
đâu đó. Buổi sáng, khi lũ súc vật đi ra khỏi chuồng thì thấy cột cờ đã đổ từ
bao giờ, còn cây du ở cuối vườn thì đã bị trốc gốc không khác gì người ta nhổ
cây củ cải. Nhưng đấy chưa phải đã hết, trước mặt chúng còn một cảnh tượng
khủng khiếp hơn nhiều. Cối xay gió đã bị đổ sập hoàn toàn. Tất cả cùng đồng
thanh thét lên vì thất vọng.
Chúng lao về phía công trường.
Napoleon vốn vẫn cho rằng chạy là việc hạ đẳng cũng ba chân bốn cẳng chạy ngay
đầu đoàn. Thế là xong, tất cả đã thành công toi, những viên đá mà chúng phải
khó nhọc mới đập vỡ và vận chuyển tới được nay nằm ngổn ngang khắp nơi. Không
nói nên lời, chúng đứng lặng, đau khổ ngắm nhìn đống đá đổ. Napoleon im lặng đi
đi lại lại, thỉnh thoảng gí mũi xuống đất để ngửi. Đuôi nó duỗi thẳng, đập qua
đập lại rất mạnh, chứng tỏ nó đang suy nghĩ rất lung. Nó bỗng dừng lại, có
nghĩa là nó đã tìm được giải pháp.
"Thưa các đồng chí", nó
bình tĩnh nói, "các đồng chí có biết ai phải chịu trách nhiệm về việc này
không? Kẻ nào đã phá hoại, kẻ nào đã phá sập cối xay gió của chúng ta đêm qua?
Tuyết Tròn!", nó bỗng gào lên, "chính Tuyết Tròn chứ không ai. Tên
phản bội đầy thù hận đó đã nhẫn tâm tìm cách phá chúng ta và trả thù về việc nó
bị trục xuất một cách nhục nhã, nó đã lợi dụng đêm tối để mò vào và phá hủy
toàn bộ thành quả lao động suốt một năm trời nay của chúng ta. Hôm nay, tại
đây, tôi tuyên bố kết án tử hình Tuyết Tròn. Ai giết được nó sẽ được phong Súc
Vật Anh Hùng hạng hai và được thưởng một nửa thùng táo. Ai bắt sống được nó sẽ
được thưởng một thùng táo."
Con nào cũng vô cùng căm tức khi
biết tin Tuyết Tròn đã phạm tội ác tày trời như thế. Hờn căm bộc phát thành
tiếng thét, con nào cũng nghĩ cách bắt sống Tuyết Tròn nếu nó còn lảng vảng đâu
đây. Chúng còn phát hiện ra dấu chân lợn ở trên đám cỏ ngay gần khu đồi. Dấu
chân kéo dài khoảng chục mét, có vẻ như hướng về chỗ có lỗ thủng trên hành rào.
Napoleon hít lấy hít để các dấu chân ấy và sau đó tuyên bố rằng đấy là chân
Tuyết Tròn. Napoleon nói rằng có thể Tuyết Tròn đi từ hướng Trại Cáo tới.
"Chậm
nghĩa là chết", Napoleon tuyên bố sau khi xem dấu chân xong, "phải
tiếp tục công việc, thưa các đồng chí! Chúng ta sẽ bắt đầu khôi phục cối xay
gió ngay từ sáng hôm nay, chúng ta sẽ làm trong suốt mùa đông này, mặc cho gió
mưa, giá rét. Chúng ta sẽ dạy cho tên phản bội khốn nạn đó một bài học là nó
không thể ngăn cản được chúng ta. Xin các đồng chí nhớ cho: kế hoạch của chúng
ta vẫn không thay đổi. Chúng ta nhất định sẽ hoàn thành việc xây dựng cối xay
gió đúng thời hạn. Các đồng chí, tiến lên! Cối xay gió muôn năm! Trại Súc vật
muôn năm!".
Chương 7
Mùa đông năm đó rất khắc nghiệt. Bão
rồi đến mưa, sau đó là tuyết và băng giá, sang tháng hai mà băng chưa tan. Thế mà
lũ súc vật vẫn miệt mài xây dựng lại cối xay gió, chúng biết rằng người ta đang
theo dõi chúng và bọn người độc ác ấy sẽ có cớ để vui mừng nếu chúng không hoàn
thành công trình đúng hạn.
Để trêu tức chúng, người ta còn làm
ra vẻ không tin là Tuyết Tròn đã phá cối xay gió, họ bảo rằng nó sập là do
tường mỏng quá. Nhưng lũ súc vật thì tin chắc là không phải thế. Dù sao chúng
cũng quyết định sẽ xây tường dày một mét chứ không phải bốn mươi phân như trước
đây nữa, và như vậy thì cần phải khai thác nhiều đá hơn trước. Mỏ đá chìm dưới
tuyết trong một thời gian dài nên không thể bắt đầu được. Sau đó thì trời tuy
có lạnh nhưng khô ráo, nhưng công việc quả là khủng khiếp, lũ súc vật không còn
hăng hái như xưa nữa. Chúng không những bị lạnh mà còn thường xuyên bị đói nữa.
Chỉ có Chiến Sĩ và Bà Mập là vẫn nhiệt tình. Chỉ Điểm động viên phong trào bằng
những buổi nói chuyện, nó chứng minh một cách hùng hồn rằng lao động là hạnh
phúc và vinh quang. Nhưng những buổi nói chuyện của Chỉ Điểm cũng không có tác
dụng, chính sức khoẻ và câu "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa" của Chiến Sĩ là
nguồn động viên rất lớn đối với những con khác.
Lương thực bắt đầu cạn vào tháng
giêng. Khẩu phần bằng ngũ cốc bị cắt bớt, thay vào đó là khoai tây. Khi đó lại
phát hiện ra là đa số khoai tây đánh đống đã bị nhũn vì không được che đậy cẩn
thận, số ăn được còn lại chẳng đáng là bao. Nhiều hôm chúng chỉ được ăn mỗi cỏ
và củ cải. Nạn đói bắt đầu đe doạ.
Tin này dứt khoát phải giữ kín,
không được để cho người xung quanh biết. Phấn chấn vì vụ sập cối xay gió người
ta càng tung nhiều tin thất thiệt về Trại Súc Vật hơn. Người ta đồn nào là lũ
súc vật sắp sửa chết vì đói và bệnh đến nơi, nào là chúng đánh nhau suốt ngày,
nào là chúng đang ăn thịt lẫn nhau, rồi giết cả những con non nữa. Napoleon
hiểu rằng sẽ có nhiều phiền toái nếu người ngoài biết trại đang gặp khó khăn về
lương thực nên quyết định dùng Whymper làm công cụ phản tuyên truyền. Trước đây
lũ súc vật thường đứng xa xa mỗi khi Whymper ghé vào trại, nhưng bây giờ một số
con được chọn, chủ yếu là cừu, được phép đến gần và làm như vô tình, nói rằng
dạo này khẩu phần có tăng. Ngoài ra, Napoleon còn ra lệnh đổ cát cho gần đầy bồ
bịch trong kho rồi lấy ngũ cốc và bột phủ lên trên. Mỗi khi có dịp là chúng lại
dẫn Whymper đi ngang qua nhà kho để ông ta có thể nhìn thấy lương thực chứa
trong đó. Whymper đã bị xỏ mũi và thường nói với mọi người là Trại Súc Vật vẫn
đủ lương thực.
Mặc dù vậy, đến cuối tháng giêng thì
thấy rõ là phải tìm cách mua thêm ngũ cốc. Dạo này Napoleon ít khi đi ra ngoài,
nó ngồi lì trong ngôi nhà chính, các cửa ra vào đều có những con chó dữ canh
phòng nghiêm ngặt. Nếu nó đi ra ngoài thì bao giờ cũng có sáu con chó hộ tống
xung quanh, bọn này lập tức nhe nanh gầm gừ, đe dọa khi thấy những con khác đến
gần. Nó cũng không còn tham gia các buổi Họp ngày chủ nhật nữa mà giao cho một
con lợn khác, thường là Chỉ Điểm, đọc bảng phân công công việc.
Một lần, vào chủ nhật, Chỉ Điểm
tuyên bố là lũ gà mái, bọn này vừa bắt đầu đẻ, phải giao nộp trứng. Thông qua
Whymper, Napoleon đã kí hợp đồng cung cấp bốn trăm quả trứng mỗi tuần. Tiền bán
trứng đủ mua lương thực cho đến mùa hè và khi đó mọi sự sẽ dễ dàng hơn.
Lũ gà mái gào toáng lên. Trước đây
chúng cũng đã được nhắc nhở là cần phải hy sinh, nhưng không ngờ mọi sự lại tồi
tệ đến như vậy. Chúng đã chuẩn bị tổ cho vụ ấp xuân, chúng tuyên bố là bây giờ
mà lấy trứng thì khác gì sát sinh. Kể từ ngày trục xuất ông Jones, đây là lần
đầu tiên có một cuộc tụ tập giống như bạo loạn. Ba con gà mái tơ giống Minorca
cầm đầu cuộc nổi dậy chống lại kế họach của Napoleon. Biện pháp của chúng là
bay lên xà nhà và đẻ xuống cho trứng vỡ. Napoleon hành động nhanh chóng và
quyết liệt. Nó hạ lệnh không cho bọn gà mái ăn nữa và còn tuyên bố là con nào
cho lũ gà dù chỉ một hạt thóc sẽ bị tử hình ngay lập tức. Lũ chó được phân công
theo dõi. Lũ gà mái cầm cự được năm ngày, cuối cùng đã phải đầu hàng và trở về
đẻ vào tổ như cũ. Chín con gà mái chết. Chúng bị coi là chết vì bệnh cầu trùng
và được chôn trong vườn. Whymper không hề biết chuyện này và đều đặn tuần nào
cũng có một chiếc xe đến lấy trứng.
Không thấy Tuyết Tròn đâu. Có tin
đồn là nó trốn trong Trại Cáo hay Trại Keo gì đó. Quan hệ giữa Napoleon với các
trại xung quanh đã được cải thiện phần nào. Lúc đó chúng bỗng phát hiện được
một đống gỗ trong sân trại, số gỗ này bị đốn cách đây khoảng chục năm. Số gỗ
tìm được thật đúng lúc, Whymper khuyên Napoleon đem bán, cả Pilkington và
Frederick đều muốn mua. Napoleon lưỡng lự, không biết nên bán cho ai. Cứ hễ nó
định bán cho Frederick thì có tin nói là Tuyết Tròn đang trốn trong Trại Cáo,
mà khi nó ngả sang Pilkington thì lại có tin Tuyết Tròn đang trong Trại Keo.
Đầu tháng giêng toàn trại bỗng sôi
động vì một tin bất ngờ như sét đánh giữa trời quang. Hoá ra là Tuyết Tròn vẫn
thường bí mật thâm nhập trại vào ban đêm! Lũ súc vật lo lắng đến mất ngủ. Đồn
rằng đêm nào Tuyết Tròn cũng mò vào phá hoại. Nó ăn trộm lương thực, hất đổ các
xô sữa, đạp vỡ trứng, dẫm nát các đám mạ và nhai vỏ cây trong vườn. Khó khăn
thất bại nào cũng bị qui là tại Tuyết Tròn. Nếu cửa sổ bị vỡ hay ống thoát nước
bị tắc là y như rằng có con nói là tại Tuyết Tròn phá, ngay khi chìa khóa nhà
kho bị mất thì cả trại cũng cho rằng Tuyết Tròn đã ném xuống giếng. Điều lạ là
sau khi đã tìm thấy chìa khóa bên dưới túi bột thì cả trại vẫn tin là tại Tuyết
Tròn. Lũ bò khẳng định rằng ban đêm Tuyết Tròn chui vào chuồng và vắt trộm sữa
khi chúng ngủ. Đồn rằng lũ chuột, bọn này từng gây nhiều rắc rối mùa đông vừa
rồi, cũng liên kết với Tuyết tròn.
Napoleon hạ lệnh phải điều tra thật
kĩ các hoạt động của Tuyết Tròn. Napoleon, được mấy con chó hộ tống, khảo sát
một vòng tất cả các toà nhà trong trại, trong khi những con khác đi theo xa xa
phía sau. Nó bảo nó có thể đánh hơi được Tuyết Tròn nên cứ đi vài bước lại dừng
lại và ngửi đất để tìm dấu vết. Góc nào nó cũng ngửi, ngửi cả nhà kho, chuồng
bò, chuồng gà, vườn rau và chỗ nào cũng có dấu vết Tuyết Tròn cả. Nó dí mũi
xuống đất vài lần rồi hít vào thật sâu, sau đó tuyên bố bằng một giọng nghe đã
rợn người: "Tuyết Tròn! Hắn đã mò đến đây! Ta đã nhận ra mùi của
nó!", cứ nghe mỗi từ "Tuyết Tròn" là lũ chó lại nhe nanh và sủa
phụ họa.
Tất cả run lên vì sợ. Có cảm tưởng
như tên Tuyết Tròn bí ẩn và đầy quyền năng đang ẩn náu đâu đây, rất gần và sẵn
sàng trút tai họa xuống đầu chúng.Tối hôm đó, Chỉ Điểm gọi tất cả lại và với bộ
mặt nghiêm trọng nó bảo rằng có một số tin khẩn cấp cần thông báo.
"Thưa các đồng chí!", nó
gào lên, "chúng tôi đã phát hiện ra một tội ác không thể tha thứ được.
Tuyết Tròn đã bán mình cho Frederick của Trại Keo, lão này vẫn đang dự định tấn
công để cướp trại của chúng ta! Một khi chiến tranh xảy ra thì Tuyết Tròn sẽ
làm nhiệm vụ dẫn đường. Nhưng nó còn táng tận lương tâm hơn thế nhiều. Trước
đây chúng ta từng nghĩ rằng Tuyết Tròn gây rối là do tính tự phụ và ham hố
quyền lực. Nhưng thưa các đồng chí, chúng ta đã lầm. Các đồng chí có biết lí do
thật sự nằm ở đâu không? Ngay từ đầu nó đã liên kết với lão Jones! Nó là gián
điệp nằm vùng của lão Jones. Chứng cớ đã được thể hiện trong những tài liệu mà
nó để lại và chúng ta mới tìm thấy gần đây. Thưa các đồng chí, tôi cho rằng
điều đó lí giải nhiều việc. Chả lẽ chúng ta chưa nhận ra là nó đã cố gắng, may
mà không thành, làm cho chúng ta thua và tan rã trong Chiến dịch Chuồng bò hay
sao?"
Tất cả đều ngớ ra. Tội ác này thật
quá khủng khiếp, vượt xa việc phá hoại cối xay gió. Phải một lúc sau chúng mới
nhận thức được hết tính chất nghiêm trọng của sự việc. Tất cả chúng vẫn nhớ,
hay chúng tưởng là vẫn nhớ hình ảnh của Tuyết Tròn khi nó xông lên dẫn đầu cuộc
tấn công trong Chiến dịch Chuồng bò, khi nó đoàn kết và cổ vũ chúng, khi nó
không buông bỏ dù đã bị lão Jones bắn bị thương. Thật khó tưởng tượng làm sao
chuyện đó lại xảy ra nếu như nó là gián điệp của lão Jones. Ngay cả Chiến Sĩ,
vốn kiệm lời, cũng cảm thấy bối rối. Chiến Sĩ nằm xuống, co hai chân trước vào
bụng, nhắm mắt lại, cố gắng tập trung tư tưởng và cuối cùng nói:
"Tôi không tin, trong Chiến
dịch Chuồng bò Tuyết Tròn đã chiến đấu dũng cảm. Chính mắt tôi nhìn thấy như
thế. Chẳng phải chúng ta đã phong nó làm Súc vật Anh hùng hạng nhất ngay sau
chiến dịch là gì?"
"Thưa các đồng chí, đấy chính
là sai lầm của chúng ta. Bây giờ chúng ta biết rằng, những việc này đều ghi rõ
trong các tài liệu mật mà chúng ta mới tìm thấy, nó định dụ chúng ta vào bẫy
cho bọn kia tiêu diệt."
"Nhưng nó cũng bị thương",
Chiến Sĩ nói, tất cả chúng ta đều nhìn thấy máu chảy khi nó đang chạy."
"Đấy là do đã sắp đặt từ
trước!", Chỉ Điểm gào lên, "phát súng của lão Jones chỉ sượt qua
người nó thôi. Ước gì các đồng chí biết đọc để tôi có thể chỉ cho các đồng chí
thấy tên Tuyết Tròn đã viết rõ bằng giấy trắng mực đen như thế nào. Chúng đã
thoả thuận là vào lúc nguy kịch nhất thì Tuyết Tròn sẽ hạ lệnh rút lui, nhường
trận địa cho địch quân. Và nó đã suýt thành công, tôi có thể nói rằng nó chắc
chắn sẽ thành công nếu như không có nhà Lãnh đạo Anh hùng, Đồng chí Napoleon
kính mến của chúng ta. Các bạn còn nhớ lúc lão Jones và gia nhân tiến vào sân
chứ? Tuyết Tròn quay lưng bỏ chạy và nhiều con đã chạy theo hắn. Chả lẽ các bạn
không nhớ rằng đúng lúc đó, khi mà hỗn loạn bắt đầu lan ra và có vẻ như vỡ mặt
trận đến nơi, thì đồng chi Napoleon xông lên và hô "Giết!" rồi lao
thẳng vào chân lão Jones ư? Thưa các đồng chí, chắc chắn các đồng chí nhớ tình
tiết đó!", Chỉ Điểm vừa nói vừa nhảy từ bên này sang bên kia.
Bây giờ, khi Chỉ Điểm mô tả sống
động như thế thì lũ súc vật dường như đã nhớ ra. Dù sao thì chúng cũng nhớ rõ
là Tuyết Tròn đã quay đầu chạy đúng vào lúc nguy ngập. Nhưng Chiến Sĩ thấy vẫn
chưa ổn.
"Tôi không tin là Tuyết Tròn đã
phản bội ngay từ đầu", nó nói, "sau này lại là chuyện khác. Tôi tin
rằng trong Chiến dịch Chuồng bò Tuyết Tròn vẫn là một đồng chí tốt."
"Lãnh tụ của chúng ta, đồng chí
Napoleon", Chỉ Điểm nói một cách chậm rãi và kiên quyết, "đã tuyên bố
dứt khoát, tôi xin nhắc lại, thưa các đồng chí, tuyên bố dứt khoát rằng ngay từ
đầu Tuyềt Tròn đã là gián điệp của lão Jones, từ trước khi chúng ta nghĩ đến
Khởi nghĩa cơ."
"Thế thì khác!", Chiến Sỹ
bảo "Đồng chí Napoleon đã nói thì nhất định đúng."
"Đấy là một thái độ thực sự cầu
thị, thưa các đồng chí!", Chỉ Điểm reo lên, nhưng mọi con đều thấy đôi mắt
ti hí, đảo điên, hằn học của nó chiếu thẳng vào Chiến Sĩ. Nó đã định đi, nhưng
còn nói thêm đầy đe dọa, "Tôi xin báo trước là các bạn phải cảnh giác. Có
đầy đủ cơ sở để nghĩ rằng trong trại này vẫn còn tay sai của Tuyết Tròn
đấy!"
Bốn ngày sau, buổi chiều, Napoleon
hạ lệnh tất cả phải có mặt ngoài sân. Khi tất cả đã đến đủ thì Napoleon xuất
hiện, ngực đeo hai huy chương (nó mới tự phong cho mình danh hiệu Súc vật anh
hùng bậc I và Súc vật anh hùng bậc II) với chín con chó to lớn, vừa chạy quanh
vừa sủa to đến nỗi lũ súc vật sợ đến nổi gai ốc. Chúng ngồi yên lặng, thu mình
lại, như chờ đợi một trận cuồng phong dữ dội.
Napoleon nghiêm khắc nhìn đám đông,
rồi rít lên lảnh lảnh như tiếng còi. Ngay lập tức lũ chó lao vào cắn tai bốn
con lợn thịt, mấy con đó ngất đi vì đau và sợ, rồi kéo đến chân Napoleon. Máu
chảy ra từ tai mấy con lợn, và lũ chó phát điên lên khi ngửi thấy mùi máu tươi.
Mọi con còn ngạc nhiên hơn nữa khi có ba con chó lao vào Chiến Sĩ. Chiến Sĩ
liền giơ chân lên tóm lấy một con và đè xuống đất. Con đó vội kêu ầm lên xin
tha mạng, hai con kia cụp đuôi lại, bỏ chạy. Chiến Sĩ nhìn Napoleon có ý hỏi
nên xéo chết hay nên thả con chó bị giữ. Napoleon thay đổi nét mặt và hạ lệnh
cho Chiến Sĩ thả, thế là Chiến Sỹ nhấc chân lên, con chó thảm hại, mình mảy
thâm tím, vừa lết đi vừa rên ư ử.
Trật tự nhanh chóng được vãn hồi.
Bốn con lợn nằm chờ số phận, người run bắn, tội lỗi hiện rõ trên từng nét mặt.
Napoleon hạ lệnh cho chúng phải thú nhận tội lỗi. Đấy chính là bốn con lợn đứng
lên phải đối khi Napoleon quyết định hủy bỏ những cuộc Họp vào ngày chủ nhật.
Ngay lập tức chúng thú nhận đã từng bí mật tiếp xúc với Tuyết Tròn từ khi nó bị
trục xuất khỏi trại, đã giúp nó phá cối xay gió và thỏa thuận cùng với nó bán
đứng Trại Súc Vật cho Frederick. Chúng còn khai thêm rằng Tuyết Tròn đã nói với
chúng rằng nó là gián điệp của lão Jones từ nhiều năm trước. Khi chúng vừa nói
xong thì lũ chó lao lên cắn đứt cổ họng cả bốn con, sau đó Napoleon, bằng một
giọng đe doạ, nghe đã nổi gai gà, hỏi có con nào thấy cần phải thú tội không.
Ba con gà cầm đầu cuộc nổi loạn về
trứng bước lên phía trước và tuyên bố rằng chúng mơ thấy Tuyết Tròn kích động
chúng bất tuân mệnh lệnh của Napoleon. Chúng cũng bị hành quyết. Sau đó có một
con ngỗng bước ra và thú nhận đã lấy sáu bông lúa trong vụ mùa vừa qua để đến
đêm ăn. Rồi một con cừu cái thú nhận đã bị Tuyết Tròn xúi giục đái vào bể nước
ăn, rồi hai con cừu nữa thú nhận đã hành hạ đến chết một con cừu đực già, con
này đặc biệt trung thành với Napoleon, chúng đuổi nó chạy quanh đống lửa khi nó
bị ho. Tất cả những con này đều bị tử hình tại chỗ. Cứ thế, hành quyết đi liền
ngay sau lời thú tội. Chẳng mấy chốc dưới chân Napoleon đã là một đống xác, còn
không khí thì nồng nặc mùi máu tươi, một cảnh tượng chưa từng có từ ngày ông
Jones bị trục xuất.
Những con vật còn lại sau vụ hành
quyết, tất nhiên không kể lũ chó và lũ lợn, tụ tập thành một đám và lặng lẽ bò
ra khỏi sân. Trông chúng thật nhỏ nhoi và khốn nạn. Chúng không hiểu giữa sự
phản bội của những con liên kết với Tuyết Tròn và sự trừng phạt dã man mà chúng
vừa chứng kiến, cái nào gây sốc mạnh hơn. Ngày xưa chúng đã từng chứng kiến
những cảnh thảm sát không kém phần man rợ, nhưng lần này sự việc rõ ràng khủng
khiếp hơn vì đây là chúng giết lẫn nhau. Từ ngày lão Jones ra đi đến giờ chưa
có con nào bị giết cả. Ngay cả chuột cũng chưa bị giết. Chúng đi lên khu đồi
rồi cùng nằm sát vào nhau cho ấm bên cạnh cái cối xay gió đang xây dở: Bà Mập
nằm cạnh Mona, Benjamin, rồi đến bầ bò, cừu, gà, ngỗng, vắng mỗi con mèo, nó đã
lỉnh ngay trước khi Napoleon triệu tập. Chúng nằm yên lặng. Chỉ có Chiến Sĩ là
vẫn đứng. Nó cứ đi đi lại lại, đuôi đập liên hồi vào hai bên sườn, thỉnh thoảng
lại hí khe khẽ đầy lo âu. Cuối cùng nó nói:
"Tôi chẳng hiểu gì cả. Không
thể nào tin được là chuyện đó có thể xảy ra trong trại của chúng ta. Có thể là
chính chúng ta cũng có lỗi. Chỉ có một lối thoát, đấy là làm việc nhiều hơn. Từ
nay tôi sẽ dậy trước một tiếng đồng hồ."
Rồi nó buồn bã bước về khu mỏ đá. Cu
cậu nhặt đầy hai xe và kéo đến công trường xây dựng trước khi đi ngủ.
Lũ súc vật túm tụm cạnh Bà Mập nhưng
vẫn không có con nào lên tiếng. Từ trên đỉnh đồi chúng có thể nhìn thấy toàn
cảnh khu vực. Chúng trông thấy gần như toàn bộ Trại Súc Vật - bãi chăn thả kéo
dài đến tận con đường chính, đồng trồng cỏ, rừng cây, bể nước, cánh đồng trồng
trọt với những cây lúa mì đang lên xanh tốt và mái ngói của những ngôi nhà
trong trang trại với những vệt khói ngoằn ngoèo. Đấy là một buổi chiều mùa
xuân, trời quang mây tạnh. Ánh chiều tà đổ vàng trên thảm cỏ và trên những bờ dậu
phía xa xa. Chúng ngạc nhiên nhớ lại rằng trang trại này là của chúng, mỗi
thước đất ở đây đều là tài sản của chúng, mỗi thước đất đều đáng quí xiết bao.
Bà Mập nhìn ra xa, mắt đẫm lệ. Nếu có thể nói hết được những điều nó nghĩ thì
chắc chắn nó sẽ nói rằng đấy không phải là điều chúng định làm khi chúng quyết
định lật đổ ách thống trị của giống người. Trong cái đêm Thủ Lĩnh già kêu gọi
chúng khởi nghĩa, chúng không thể nào tưởng tượng lại có cảnh khủng bố và giết
hại hàng loạt như ngày hôm nay. Nếu lúc đó nó có nghĩ về tương lai thì đấy phải
là một xã hội của những con vật không còn bị đói, không còn bị đòn roi, tất cà
đều bình đẳng, tất cả đều làm việc theo năng lực, con khoẻ bảo vệ con yếu, như
nó từng bảo vệ lũ vịt con mồ côi trong cái đêm Thủ Lĩnh già nói chuyện đó. Thế
mà, nó không thể hiểu vì sao, giờ đây không con nào còn dám nói lên ý nghĩ thật
của mình nữa, lũ chó săn hung dữ lùng sục khắp nơi và tất cả phải chứng kiến
cảnh giết hại các đồng chí sau khi những con này thú nhận đã phạm những tội ác
tày trời. Nhưng trong đầu nó không hề có một ý nghĩ bất tuân hay tạo phản nào.
Dù sao chúng vẫn sướng hơn thời còn lão Jones và điều chính yếu là phải ngăn
chặn con người quay trở lại. Dù thế nào thì nó cũng vẫn trung thành với sự
nghiệp, tiếp tục lao động quên mình, hoàn thành mọi nhiệm vụ, tiếp tục đi theo
con đường mà Napoleon đã chọn. Nhưng chả lẽ đấy chính là điều chúng hằng ao
ước, là cái chúng đã khổ công mới tạo dựng được? Không, chúng xây cối xay gió
với một mục đích hoàn toàn khác, cuộc chiến đấu sống còn với lão Jones cũng là
để tạo dựng một xã hội khác hẳn cái mà chúng nhận được ngày hôm nay. Đấy là
những ý nghĩ lướt qua đầu Bà Mập, nhưng nó không thể nói thành lời.
Không thể tìm được lời để nói, Bà
Mập đành hát bài " Súc Sinh Anh quốc", đấy cũng là một cách thể hiện
những tình cảm đang cuộn dâng trong lòng. Các con khác lập tức hát theo. Chúng
hát ba lần, tiếng hát du dương, chậm và buồn; chưa bao giờ chúng hát như thế.
Khi chúng vừa hát xong lần thứ ba
thì Chỉ Điểm, có hai con chó hộ tống, tiến lại. Cứ trông dáng chúng là biết
ngay có tin quan trọng cần phải thông báo gấp. Nó tuyên bố rằng bài "Súc
Sinh Anh quốc" đã bị hủy bỏ theo một nghị định đặc biệt của Đồng chí
Napoleon. Từ nay trở đi cấm không con nào được hát bài đó nữa.
Các con vật đều ngớ ra.
"Tại sao?", Muriel hỏi.
"Thưa các đồng chí, bài hát này
đã lỗi thời rồi", Chỉ Điểm lạnh lùng nói, "Bài "Súc Sinh Anh
quốc" là bài hát kêu gọi khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa đã thắng lợi hoàn
toàn. Vụ hành quyết chiều nay chính là trận cuối cùng đấy. Kẻ thù, cả bên trong
lẫn bên ngoài đều đã bị đánh bại. Bài "Súc Sinh Anh quốc" nói lên ước
mơ của chúng ta về một xã hội tốt đẹp hơn trong tương lai. Xã hội đó đã xây
dựng xong. Bài hát này rõ ràng là không còn cần thiết nữa."
Dù đã rất hoảng sợ, nhưng chắc chắn
sẽ có con đứng lên phản đối nếu như lúc đó lũ cừu không tụng ngay như thường
lệ: "Bốn chân tốt, hai chân xấu", chúng tụng liền mấy phút thành ra
không con nào còn có ý kiến gì được nữa.
Không con nào còn hát "Súc Sinh
Anh quốc" nữa. Thay vào đó, Kế Tục, một thi sĩ mới nổi, đã viết một bài
hát khác, bắt đầu như sau:
Súc Vật Trại này, Súc Vật Trại này
Kẻ thù đến sẽ tan thây.
Từ đó trở
đi bao giờ chúng cũng hát bài này sau lễ kéo cờ vào các sáng chủ nhật hàng
tuần. Nhưng lũ súc vật cho rằng cả nhạc điệu lẫn lời bài mới đều không hay bằng
bài "Súc Sinh Anh quốc" trước đây.
Chương 8
Vài ngày sau, khi nỗi sợ hãi do vụ
thảm sát tạo ra đã lắng xuống thì có mấy con đã nhớ được, hay tưởng là nhớ được
rằng Điều Răn Thứ Sáu nói: "Loài vật không được giết hại lẫn nhau".
Dù không dám nói ra khi đứng gần lũ chó và lợn, nhưng cả bọn đều cho là những
vụ giết chóc vừa qua không phù hợp với Điều Răn Thứ Sáu. Bà Mập yêu cầu
Benjamin đọc cho nghe Điều Răn Thứ Sáu, nhưng cũng như mọi khi, Benjamin bảo
rằng nó không dây vào những chuyện như vậy. Bà Mập đành đi tìm Muriel để nhờ
đọc. Điều ấy được viết như sau: "Loài vật không được giết hại lẫn nhau nếu
không có lí do". Hoá ra là chúng đã quên mấy từ cuối. Nhưng như vậy là
Điều Răn này vẫn được tôn trọng, những tên phản bội liên kết với Tuyết Tròn
đáng bị giết quá đi chứ.
Năm nay chúng còn làm việc vất vả
hơn năm trước rất nhiều. Ngoài những công việc thường nhật của trang trại,
chúng còn phải xây dựng lại cối xay gió với những bức tường dày gấp đôi, mà lại
phải hoàn thành đúng kế họach. Có những lúc chúng thấy phải làm nhiều hơn mà
lại được ăn không khác gì thời còn ông Jones. Sáng chủ nhật nào Chỉ Điểm cũng
cầm một mảnh giấy dài và đọc cho chúng nghe các số liệu chứng minh rằng sản
lượng các loại lương thực, thực phẩm đều tăng, khi thì hai trăm, khi thì ba
trăm, khi thì năm trăm phần trăm. Chúng chẳng thấy có lí do gì để nghi ngờ,
nhất là vì chúng đã quên, chẳng còn nhớ gì quá khứ trước ngày Khởi Nghĩa nữa.
Tuy thế, đôi khi chúng thấy thà số liệu ít đi mà thức ăn nhiều thêm thì vẫn
hơn.
Mọi mệnh lệnh bây giờ đều được Chỉ
Điểm hay một con lợn khác đưa xuống. Napoleon chỉ xuất hiện nửa tháng một lần.
Mỗi lần nó xuất hiện thì ngoài bầy chó hộ tống còn có một con gà trống màu đen
đi trước, giống như lính thổi kèn trong đội kị binh, con gà này bao giờ cũng
gáy "Ò ó o…" thật to trước khi Napoleon hắng giọng bắt đầu bài diễn
văn. Có tin nói rằng ngay trong ngôi nhà chính Napoleon cũng có một phòng
riêng, tách biệt hẳn với những con lợn khác. Nó ăn riêng, khi ăn bao giờ cũng
có hai con chó đứng hầu, bát đĩa đều bằng sứ, trước đây, hồi còn ông Jones
những thứ này vốn để trong tủ phòng khách và chỉ đem ra dùng trong những ngày
lễ trọng. Có thêm một quyết định mới là từ nay sẽ bắn súng chào mừng ba lần,
một lần vào ngày sinh của Napoleon và hai lần khác vào những ngày lễ lớn của
trại.
Bây giờ chúng không xưng hô với Napoleon
đơn giản như trước nữa. Tên nó luôn đi kèm với những từ như "Lãnh tụ của
chúng ta, Đồng chí Napoleon", lũ lợn còn cố gắng phát minh ra các tên mới
như: Cha của các loài vật, Nỗi khiếp sợ của giống người, Người bảo vệ của loài
cừu, Bạn của loài vịt v.v... Mỗi khi nói về trí tuệ, lòng nhân từ, tình yêu
thương sâu như trời biển của Napoleon dành cho súc vật, đặc biệt là những con
còn phải sống trong vòng nô lệ tối tăm của các trang trại khác là nước mắt
Tuyết Tròn lại chảy ướt đẫm hai gò má. Mọi thành tích đều được qui về cho
Napoleon. Có thể nghe thấy hai con gà mái tâm sự: "Dưới sự dẫn dắt của
Đồng chí Napoleon, Lãnh tụ của chúng ta, tôi đã đẻ được năm quả trứng trong sáu
ngày vừa rồi"; hay hai con bò vừa uống nước vừa nói: "Nhờ sự lãnh đạo
sáng suốt của đồng chí Napoleon mà nước dạo này mới ngọt làm sao!". Tâm
trạng chung của trại được thể hiện trong bài thơ mang tên: "Đồng chí
Napoleon" do Kế Tục sáng tác:
Đồng chí Napoleon!
Người là cha của những đứa trẻ mồ
côi,
Là suối nguồn hạnh phúc muôn đời,
Là vầng thái dương chiếu sáng bầu
trời.
Ánh mắt người ấm mãi lòng tôi.
Đồng chí Napoleon!
Người cho tôi bữa ăn lúc đói lòng.
Người cho tôi nệm rơm ấm mùa đông.
Người ngồi canh,
Cho bầy con giấc ngủ yên lành.
Con ơi!
Hạnh phúc muôn đời,
Là nhờ Đồng chí Napoleon.
Tên cha tên mẹ tên chồng,
Con có thể quên.
Nhưng tên người,
Vầng thái dương chiếu sáng đời đời
Con phải nhớ mãi không thôi:
Napoleon, Napoleon, người ơi! 1
Napoleon chấp nhận bài thơ và bảo
viết lên bức tường nhà kho lớn, bên cạnh Bảy Điều Răn. Bên trên bài thơ là hình
Napoleon nhìn nghiêng do Chỉ Điểm vẽ bằng sơn trắng.
Trong khi đó, Napoleon, qua trung
gian là Whymper, đang tiến hành những cuộc đàm phán rắc rối với Frederick và
Pilkington. Vẫn chưa bán được đống gỗ. Frederick muốn mua lắm, nhưng lại trả
giá quá thấp. Đồng thời lại có tin đồn rằng Frederick và lũ gia nhân đang âm
mưu tấn công Trại Súc Vật để phá cối xay gió vì lão ghét cay ghét đắng ngôi nhà
này. Nghe nói Tuyết Tròn vẫn đang trốn trong Trại Keo. Đến giữa mùa hè thì lũ
súc vật lại được một phen hoảng loạn khi nghe đồn có ba con gà tự thú đã bị
Tuyết Tròn xúi giục mưu sát Napoleon. Chúng bị hành quyết ngay lập tức và các
biện pháp an ninh nghiêm ngặt hơn cho Napoleon đã được thực hiện. Từ nay trở
đi, ban đêm sẽ có bốn con chó, mỗi con canh một góc giường, đồng thời để tránh
bị đầu độc, một con chó tên là Pinkeye được phân công nếm tất cả thức ăn trước
khi Napoleon dùng.
Cũng khoảng thời gian đó có tin
Napoleon đã quyết định bán gỗ cho Pilkington; hơn thế, nó còn dự định sẽ thiết
lập việc trao đổi sản phẩm thường xuyên giữa Trại Súc Vật và Trại Cáo nữa. Quan
hệ giữa Napoleon và Pilkington, dù chỉ mới qua trung gian là Whymper, đã trở
nên khá thân tình. Pilkington, cũng như mọi người nói chung, chẳng bao giờ được
lũ súc vật tin, nhưng dù sao thì chúng cũng thích hơn Frederick là người chúng
vừa ghét vừa sợ. Càng đến cuối mùa hè, khi mà cối xay gió đã sắp xong, thì tin
đồn về cuộc tấn công phản trắc càng tăng. Có người nói rằng Frederick dự định
dùng đội quân gồm hai mươi người đầy đủ súng ống để tấn công và đã mua chuộc
chính quyền cũng như cảnh sát để được tự do hành sự. Ngoài ra tin tức về những
việc làm thất đức của hắn đối với các con vật trong Trại Keo cũng được tiết lộ.
Hắn đánh đến chết một con ngựa già, hắn bỏ đói bầy bò, hắn ném một con chó vào
bếp lò, chiều nào hắn cũng kích động cho bọn gà trống đá nhau, mà không đá nhau
suông, hắn còn buộc dao cạo râu vào cựa gà để tìm cảm giác mạnh nữa. Khi nghe
nói các đồng chí của mình bị đối xử một cách man rợ như vậy thì máu con nào
cũng sôi lên vì giận, đôi khi chúng thét lên đòi kéo nhau đi tấn công Trại Keo,
đuổi cổ giống người đi, giành lại tự do cho lũ súc vật ở đó. Nhưng Chỉ Điểm
khuyên chúng tránh hành động một cách nóng vội và hãy tin tưởng vào đường lối
chiến lược của Đồng chí Napoleon.
Lòng căm thù đối với Frederick tăng
lên từng ngày. Một hôm, vào ngày chủ nhật, Napoleon xuất hiện trong nhà kho để
giải thích cho lũ súc vật là nó chưa bao giờ nghĩ sẽ bán gỗ cho Frederick, nó
bảo những loại như vậy không xứng đáng để nó giao tiếp. Những con bồ câu vẫn
được phái đi kêu gọi súc vật trong các trại khác đứng lên khởi nghĩa bị cấm
không được lai vãng đến gần Trại Cáo, khẩu hiệu: "Đả đảo loài người!"
được thay bằng: "Đả đảo Frederick!". Đến cuối mùa hè thì một tội ác
nữa của Tuyết Tròn được phát hiện. Lần này là cánh đồng lúa mì mọc đầy cỏ dại -
sau khi điều tra mới phát hiện ra rằng ban đêm Tuyết Tròn đã lẻn vào trại rồi
trộn hạt cỏ vào thóc giống. Một con ngỗng đực đồng phạm trong vụ này đã thú
nhận tội lỗi với Chỉ Điểm và sau đó nuốt ngay một quả cà độc dược tự sát. Lũ
súc vật còn được thông báo rằng, không phải như nhiều con vẫn tin, Tuyết Tròn
chưa bao giờ được phong danh hiệu Súc vật Anh hùng bậc I. Chuyện ấy là do chính
Tuyết Tròn bịa ra ngay sau chiến dịch Chuồng bò. Nó không những không được khen
thưởng mà con bị phê phán nặng nề vì đã tỏ ra hèn nhát khi lâm trận. Cũng như
mọi khi, tin này làm một số con bối rối, nhưng Chỉ Điểm đã nhanh chóng thuyết
phục được chúng rằng thực ra là do chúng mau quên mà thôi.
Cối xay gió được xây dựng xong vào
mùa thu, đúng vào lúc thu hoạch vụ mùa, chúng đã phải làm việc đến kiệt sức. Dù
còn phải lắp thiết bị nữa, Whymper đang đàm phán để mua, nhưng cái chính là đã
xây xong nhà xưởng rồi. Biết bao nhiêu khó khăn, chưa có kĩ thuật và kinh
nghiệm, lại còn bị Tuyết Tròn phá hoại, thế mà chúng vẫn hoàn thành công tác
xây dựng đúng ngày giờ đã định! Dù rất mệt mỏi, lũ súc vật vẫn cố đi nhiều vòng
quanh cối xay gió, lòng đầy tự hào, lúc này trông nó còn đẹp hơn lần xây đầu
tiên. Đấy là chưa nói tường lần này dày gấp đôi lần trước. Bây giờ muốn phá mà
không có thuốc nổ không xong! Và khi chúng nghĩ đến khối lượng công việc đã
làm, những khó khăn đã vượt qua, những đổi thay sẽ tới khi cách quạt cối xay
gió bắt đầu quay, khi máy phát điện bắt đầu chạy; khi chúng nghĩ đến những
chuyện đó thì bao nhiêu mệt mỏi đều tan biến, chúng cùng nhau chạy vòng quanh
cối xay gió, vừa chạy vừa reo hò ầm ĩ. Chính Napoleon, được mấy con chó và con
gà trống hộ tống, cũng tới xem, nó chúc mừng cả lũ nhân dịp hoàn thành công
trình và tuyên bố sẽ đặt tên công trình là Nhà máy Napoleon.
Hai ngày sau, lũ súc vật được mời
tới dự một phiên họp đặc biệt trong nhà kho. Chúng không thể nào tin được khi
nghe Napoleon nói đã bán gỗ cho Frederick. Ngày mai xe của Frederick sẽ tới
chở. Hoá ra thời gian qua Napoleon giả vờ thân thiện với Pilkington nhưng lại
bí mật đàm phán với Frederick.
Mọi quan hệ với Trại Cáo đều bị cắt,
một công hàm chứa đầy các từ ngữ có tính xúc phạm được gửi cho Pilkington. Đám
bồ câu được lệnh tránh Trại Keo và thay khẩu hiệu "Đả đảo Frederick"
thành "Đả đảo Pilkington". Đồng thời Napoleon cũng cam đoan với lũ
súc vật rằng lời đồn về vụ tấn công Trại Súc Vật là hoàn toàn vô căn cứ, cũng
như việc Frederick đối xử tàn tệ với gia súc đã bị thổi phồng quá đáng. Chắc là
Tuyết Tròn và tay sai đã tung ra các tin này. Hoá ra là Tuyết Tròn không những
không trốn trong Trại Keo mà còn chưa bao giờ đến đấy nữa, thực ra là nó đang
sống, theo người ta nói, thì khá sung túc trong Trại Cáo: nó đã bán mình cho
Pilkington từ lâu.
Lũ lợn được dịp đưa Napoleon lên
chín tầng mây. Giả vờ thân thiện với Pilkington, nó đã buộc Frederick phải trả
thêm hai mươi bảng. Chỉ Điểm còn nói rằng Napoleon là một con heo siêu quần vì
nó không bao giờ tin ai, không tin bất cứ con nào, không tin cả Frederick.
Frederick muốn thanh toán bằng sec, nghĩa là bằng một tờ giấy có ghi rõ số tiền
có thể nhận khi cần. Nhưng Napoleon tỏ ra khôn hơn hắn ta nhiều. Nó đòi thanh toán
bằng tiền mặt, loại năm bảng 2 , mà phải trả đủ tiền thì mới được mang gỗ đi.
Frederick đã thanh toán hết rồi, số tiền này đủ mua toàn bộ thiết bị cho cối
xay gió.
Gỗ được chuyển đi khá nhanh. Khi số
gỗ trong sân đã được đưa đi hết thì lũ súc vật lại được mời tham gia một cuộc
họp đặc biệt để cùng kiểm tra số tiền do Frederick giao. Napoleon, ngực đeo hai
tấm huy chương, miệng cười rất tươi, nằm ngả người trên nệm rơm, bên cạnh là
cái đĩa sứ chất đầy những tập tiền mới cứng. Lũ súc vật lần lượt đi ngang qua,
tha hồ ngắm nghía. Chiến Sĩ còn đưa mũi hít, những tờ giấy mới khẽ rung lên và
phát ra tiếng kêu loạt xoạt.
Ba ngày sau thì xảy ra một vụ náo
loạn. Hôm đó, Whymper, mặt trắng bệch như người sắp chết, phóng xe đạp như điên
vào sân trại, vừa tới nơi đã quẳng xe xuống đất rồi vội vàng lao vào toà nhà
chính. Gần như ngay lập tức người ta nghe thấy tiếng thét kinh hoàng phát ra từ
phòng Napoleon. Tin tức truyền khắp trại nhanh như lửa chớp. Tiền do Frederick
thanh toán là giả hết! Hắn đã ăn không số gỗ rồi!
Napoleon lập tức hạ lệnh tập trung
và tuyên bố kết án tử hình Frederick. Thằng ấy đáng bị thiêu sống - nó bảo như
vậy. Đồng thời nó cũng nói phải chuẩn bị tinh thần để đối phó với những tình
huống xấu nhất. Frederick và gia nhân của hắn có thể tấn công bất cứ lúc nào.
Phải cử lính canh trên mọi ngả đường dẫn vào trại. Ngoài ra nó còn cử bốn con
bồ câu mang theo thông điệp hữu hảo sang Trại Cáo để mong bình thường hóa quan
hệ.
Ngay sáng hôm sau Frederick đã tổ
chức tấn công. Lũ súc vật đang chuẩn bị ăn sáng thì con canh gác chạy vào báo
rằng Frederick cùng gia nhân đã vượt qua cổng chính của trại. Không lưỡng lự,
lũ súc vật lập tức xông lên, nhưng lần này chúng phải chiến đấu vất vả hơn
chiến dịch Chuồng bò nhiều. Cả thảy có mười lăm người với khoảng nửa tá súng,
ngay từ xa hơn một trăm mét họ đã nổ súng rồi. Tiếng súng vang lên đinh tai
nhức óc, đạn ghém vãi như trấu, lũ súc vật không ngờ cuộc chiến lại dữ dội đến
như thế nên mặc dù Napoleon và Chiến Sĩ ra sức động viện, chúng vẫn lùi dần.
Một số con đã bị thương. Chúng chạy vào nấp trong các toà nhà rồi ghé mắt nhìn
qua các lỗ thủng trên tường. Toàn bộ bãi chăn thả lớn, kể cả cối xay gió đã lọt
vào tay địch quân. Ngay cả Napoleon cũng tỏ ra bối rối. Nó yên lặng đi đi lại
lại, cái đuôi xoắn cứ đập hết bên này sang bên kia. Thỉnh thoảng nó lại nhìn về
hướng Trại Cáo. Nếu Filkington mang quân tiếp viện tới thì may ra mới có thể
đánh đuổi được địch quân. Nhưng đúng lúc đó thì bốn con bồ câu được phái đi
trước đó một ngày đã quay về. Một con ngậm miếng giấy trên ghi hai chữ
"Đáng kiếp".
Trong khi đó Frederick và gia nhân
đã tiến gần đến cối xay gió. Lũ súc vật chăm chú theo dõi, tiếng thì thầm lo
lắng bắt đầu nổi lên. Có hai người mang búa và xà beng tới. Chắc là họ định phá
cối xay gió.
"Không xong đâu!", Napoleon
gào lên, "Tường cối xay gió dày lắm, chúng không làm gì được đâu. Phải mất
cả tuần là ít. Cứ bình tĩnh đi, các đồng chí!"
Nhưng Benjamin vẫn không rời mắt
khỏi mọi động tĩnh. Hai người đang dùng búa và xà beng đào một cái hố ngay dưới
chân tường cối xay gió. Benjamin gật gù cái mõm dài ngoằng, có vẻ như nó còn
cảm thấy thú vị nữa.
"Tôi vẫn nghĩ như thế, nó bảo,
các vị có biết chúng đang làm gì không? Chúng sẽ cho thuốc nổ vào hố đấy."
Lũ súc vật sợ hãi chờ đợi. Không con
nào dám liều mạng xông ra. Rồi chúng thấy bọn người chạy tản ra tứ phía. Một
tiếng nổ đinh tai nhức óc vang lên. Lũ bồ câu bay vọt lên, còn các con khác,
trừ Napoleon thì vội nằm bẹp xuống, mặt dúi xuống đất. Khi ngẩng đầu lên thì
chúng thấy một đám khói đen còn trùm lên khu vực cối xay gió. Khói tan dần. Cối
xay gió đã bị đánh sập hoàn toàn!
Cảnh tượng làm lũ súc vật lập tức
tỉnh ngộ. Hành động tàn bạo, bất lương đó làm cho chúng vô cùng tức giận. Không
cần mệnh lệnh, chúng đồng loạt lao lên, xông thẳng vào địch quân, miệng gầm lên
những tiếng thét căm hận đòi trả thù. Đạn ghém vãi như mưa trên lưng cũng không
làm chúng nao núng. Chúng sẵn sàng hi sinh tất cả. Frederick và gia nhân bắn
liên hồi kì trận và khi lũ súc vật đến gần thì dùng gậy đánh, chân đá. Một con
bò, ba con cừu, hai con ngỗng bị giết, hầu như con nào cũng bị thương.
Napoleon, đứng đằng sau chỉ huy cũng bị đạn bắn vào đuôi. Nhưng một số gia nhân
của Frederick cũng bị sứt đầu mẻ trán. Ba người bị Chiến Sĩ đạp vỡ đầu, một
người bị bò húc thủng bụng, một người nữa bị chó cắn rách quần. Khi chín con
chó thuộc đội cận vệ của Napoleon được lệnh bọc sườn và vừa sủa vừa lao vào tấn
công thì lũ người hoảng loạn. Họ hiểu rằng sắp bị bao vây. Frederick hạ lệnh
rút lui, thế là địch quân hốt hoảng bỏ chạy. Lũ súc vật đuổi theo đến tận sát
biên giới và tiếp tục húc vào mông người khi họ chui qua lỗ hàng rào ngăn cách
hai trại.
Chúng đã thắng, nhưng chúng cũng đã
kiệt sức vì mệt và bị thương. Chúng từ từ quay trở về trang trại. Cảnh hi sinh
của đồng đội làm chúng cảm động đến trào nước mắt. Chúng đứng lặng bên cạnh
đống xà bần của cối xay gió. Cối xay gió không còn, bao nhiêu công sức đã bị
xoá sạch! Ngay cả móng cũng bị phá hỏng gần hết. Lần trước, khi xây lại, chúng
còn có thể sử dụng những viên đá cũ. Bây giờ thì đá cũng không còn. Vụ nổ đã
làm đá bắn vung vãi khắp nơi, xa đến cả trăm mét.
Khi chúng về gần đến trang trại thì
Chỉ Điểm, không con nào nhìn thấy nó khi lâm trận, bỗng ở đâu tiến lại, đuôi
vẫy nhặng lên có vẻ rất hài lòng. Lũ súc vật nghe thấy tiếng súng.
"Sao lại bắn súng thế
nhỉ?", Chiến Sĩ hỏi
"Để chào mừng chiến
thắng", Chỉ Điểm gào lên.
"Chiến thắng nào?", Chiến
Sĩ lại nói. Các đầu gối của nó đều bị rách, móng sắt thì bị tuột, bàn chân cũng
bị thương, hai chân sau còn dính hàng chục mảnh đạn.
"Sao lại chiến thắng nào, thưa
các đồng chí? Không phải là chúng ta vừa giải phóng đất đai, đất đai thiêng
liêng của Trại Súc Vật của chúng ta đấy ư?"
"Nhưng chúng đã đánh sập cối
xay gió, hai năm xây dựng chứ có ít đâu!"
"Thế thì đã sao? Chúng ta sẽ
xây cái khác. Nếu muốn chúng ta có thể xây sáu cái một lúc. Có thể đồng chí
chưa đánh giá hết chiến công vĩ đại vừa rồi của chúng ta. Kẻ thù đã chiếm được
chính mảnh đất mà chúng ta đang đứng đây. Bây giờ, nhờ sự lãnh đạo của đồng chí
Napoleon, chúng ta đã giành lại được từng tấc đất của chúng ta."
"Chúng ta giành lại chính đất
của mình", Chiến Sĩ nói.
"Đấy chính là chiến thắng chứ
còn gì nữa", Chỉ Điểm bảo.
Cuối cùng chúng cũng lê được về đến
sân trại. Các mảnh đạn còn nằm trong chân Chiến Sĩ nhức nhối không thể chịu
nổi. Nó đã mường tượng được những nỗi cực nhọc, vất vả của quá trình xây dựng
lại từ đầu cối xay gió và trong thâm tâm đã sẵn sàng lao vào công việc. Nhưng
đây cũng là lần đầu tiên nó ý thức được rằng nó đã mười một tuổi rồi, sức vóc
không còn được như mọi năm nữa.
Nhưng khi nhìn thấy lá cờ xanh đang
tung bay, nghe thấy loạt súng chào mừng, hôm đó bắn những bảy loạt và nhất là
sau khi nghe Napoleon cám ơn vì đã dũng cảm chiến đấu thì chúng thực sự cảm
thấy vừa giành được một chiến thắng vĩ đại. Những con hi sinh được chôn cất chu
đáo. Đoàn đưa tang do chính Napoleon dẫn đầu, phía sau là một chiếc xe song mã
được dùng làm xe tang do Chiến Sĩ và Bà Mập kéo. Chúng nghỉ việc hai ngày liền
để mừng chiến thắng. Chúng tổ chức hát, đọc diễn văn chào mừng và bắn súng; mỗi
con gia súc được phát một quả táo, mỗi con gia cầm được sáu mươi gram thóc, mỗi
con chó được ba cái bánh xốp. Sau đó có thông báo rằng trận đánh này được gọi
là chiến dịch Cối xay gió, Napoleon quyết định thiết lập một danh hiệu mới gọi là
"Huân chương cờ xanh" và gắn cho chính mình. Trong niềm vui chung dạt
dào đó, không con nào còn nghĩ đến vụ tiền giả vừa rồi nữa.
Sau đó mấy ngày thì lũ lợn phát hiện
được một thùng whisky trong tầng hầm của ngôi nhà chính. Chiều hôm đó những con
khác bỗng nghe thấy tiếng hát vọng ra từ ngôi nhà chính và điều làm chúng ngạc
nhiên hơn nữa là có cả những đoạn của bài "Súc Sinh Anh Quốc". Rồi
vào khoảng chín giờ rưỡi, lúc đó trời vẫn còn sáng, chúng thấy Napoleon chui ra
khỏi cửa sau, đầu đội chiếc mũ phớt cũ của ông Jones, nó chạy nước kiệu quanh
sân một vòng rồi đi vào. Sáng hôm sau một không khí im lặng bao trùm cả toà nhà
chính. Không thấy một con lợn nào hay bất cứ động tĩnh gì xung quanh toà nhà.
Mãi đến khoảng chín giờ Chỉ Điểm mới xuất hiện, mắt cu cậu trông đờ dẫn, đuôi
buông thõng, chân bước uể oải, rõ là đang mệt nặng. Nó gọi tất cả lại và nói có
một tin quan trọng cần phải thông báo. Đồng chí Napoleon đang hấp hối!
Tiếng gào khóc dậy lên. Chúng vội
mang rơm đến trải xuống trước cửa ngôi nhà chính, không con nào dám bước mạnh.
Nước mắt lưng tròng, chúng thì thầm hỏi nhau sẽ làm gì nếu như chẳng may lãnh
tụ có mệnh hệ nào. Có tin đồn Tuyết Tròn đã đầu độc Napoleon. Mười một giờ Chỉ
Điểm lại xuất hiện. Chỉ Điểm bảo rằng trước khi từ gĩa cõi đời, đồng chi
Napoleon đã kí một nghị định, từ nay con nào uống rượu thì sẽ bị kết án tử
hình.
Đến chiều có tin Napoleon đã đỡ và
sáng hôm sau thì Chỉ Điểm thông báo rằng lãnh tụ đang bình phục. Chiều hôm đó
Napoleon đã ngồi dậy làm việc và sáng hôm sau thì có tin là nó đã hạ lệnh cho
Whymper mua ở Willingdon mấy cuốn sách dạy cất rượu bia. Một tuần sau Napoleon
ra lệnh cày đám đất trước đây định dành làm bãi cỏ cho những con về hưu. Lũ súc
vật được nghe giải thích rằng miếng đất ấy cằn cỗi quá, phải trồng cấy một thời
gian để lấy màu, nhưng sau này mới rõ là Napoleon định trồng lúa mạch ở đó.
Cũng khoảng thời gian này đã xảy ra
một sự kiện mà hầu như không con nào hiểu. Hôm ấy, đã gần nửa đêm, bỗng có
tiếng động lớn vang lên ở ngoài sân, tất cả đều lao ra khỏi chuồng. Trăng hôm
đó rất tỏ, cả bọn nhìn thấy gần đầu hồi nhà kho lớn, nơi có chép "Bảy Điều
Răn", một cái thang gãy làm đôi. Gần đấy là Chỉ Điểm, lúc đó đã bất tỉnh
nhân sự, cái đèn bão cùng một hộp sơn màu trắng lăn lóc bên cạnh. Mấy con chó
lập tức đứng thành vòng tròn xung quanh Chỉ Điểm và dìu nó về nhà chính khi nó
vừa gượng dậy được. Có vẻ như ngoài Benjamin ra thì không con nào hiểu đã xảy
ra chuyện gì, nhưng nó chỉ lắc đầu, không nói câu nào.
Mấy ngày sau, Muriel, trong khi đọc
lại Bảy Điều Răn đã phát hiện ra chúng còn nhớ sai một điều nữa. Chúng tưởng
rằng Điều răn thứ năm là "Không con vật nào được uống rượu", nhưng
chúng đã quên mất ba từ. Thực ra Điều Răn đó như sau: "Không con vật nào
được uống rượu đến say xỉn"
--------------------------------
1 Nguyên văn hai bài thơ "Đồng
chí Napoleon":
Comrade Napoleon
Friend of the fatherless!
Fountain of happiness!
Lord of the swill-bucket! Oh, how my
soul is on
Fire when I gaze at thy
Calm and commanding eye,
Like the sun in the sky,
Comrade Napoleon!
Thou art the giver of
All that thy creatures love,
Full belly twice a day, clean straw
to roll upon;
Every beast great or small
Sleeps at peace in his stall,
Thou watchest over all,
Comrade Napoleon!
Had I a sucking-pig,
Ere he had grown as big
Even as a pint bottle or as a
rolling-pin,
He should have learned to be
Faithful and true to thee,
Yes, his first squeak should be
'Comrade Napoleon!'
2 Đơn vị
tiền tệ của nước Anh.
Chương 9
Cái móng bị thương của Chiến Sĩ chữa
mãi vẫn không khỏi. Trong khi đó lũ súc vật tiến hành khôi phục cối xay gió
ngay sau lễ mừng chiến thắng. Chiến Sĩ không nghỉ ngày nào, nó rất tự hào là đã
không để cho những con khác thấy nó đang bị đau. Chỉ đến tối nó mới bảo với Bà
Mập là bị vết thương hành hạ. Bà Mập phải nhai lá cây và đắp vào vết thương cho
Chiến Sĩ. Nó cùng với Benjamin thuyết phục Chiến Sĩ hãy tự bảo trọng.
"Phổi loài ngựa không được khoẻ
đâu", Nó nói.
Nhưng Chiến Sĩ không nghe. Nó bảo
chỉ có một ước nguyện duy nhất là được trông thấy cối xay gió hoàn thành trước
khi nghỉ hưu mà thôi.
Ngay từ khi mới thiết lập luật lệ
của Trại Súc Vật, đã có qui định tuổi nghỉ hưu của ngựa và lợn là mười hai, của
bò là mười bốn, của chó là chín, của cừu là bảy, còn của gà là năm. Chúng cũng
đã thống nhất là sẽ không để cho những con về hưu phải thiếu thốn bất cứ thứ
gì. Thực ra thì cho đến nay cũng chưa có con nào nghỉ hưu cả, nhưng thời gian
gần đây vấn đề này rất hay được đem ra bàn thảo. Bây giờ, khi miếng đất cạnh
khu vườn được đem đi trồng lúa mạch rồi thì lại có tin là một góc bãi cỏ dài sẽ
được rào riêng ra cho những con già cả. Cũng có tin nói rằng ngựa hưu sẽ được
lĩnh hai cân ngũ cốc mỗi ngày, đấy là mùa hè, còn mùa đông thì được bảy cân cỏ
khô, ngày lễ thì còn được phát thêm một củ cà rốt hay một quả táo nữa. Sang năm
Chiến Sĩ sẽ tròn mười hai tuổi.
Hiện nay đời sống của chúng phải nói
là khá chật vật. Mùa đông năm nay lạnh không khác gì năm trước mà thực phẩm thì
khan hiếm hơn. Khẩu phần, trừ của chó và lợn, đều bị cắt bớt. Tuyệt đối bình
quân, Chỉ Điểm giải thích, là trái với nguyên tắc của Súc Sinh Kinh. Nó dễ dàng
chứng minh cho những con khác thấy rằng thực ra là chúng có đủ lương thực, khan
hiếm thực phẩm chỉ là giả tạo. Dĩ nhiên là lúc này cần phải có một sự điều
chỉnh nhất định (Chỉ Điểm nói là "điều chỉnh" chứ không phải
"cắt bớt") nhưng nếu so với thời còn lão Jones thì sự cải thiện là rõ
ràng. Bằng một giọng đọc nhanh và the thé chói tai, nó đưa ra những con số rất
cụ thể, chứng minh rằng chúng thu được nhiều yến mạch, nhiều cỏ khô, nhiều củ
cải hơn thời còn lão Jones, công việc lại nhẹ nhàng hơn, nước uống có chất
lượng cao hơn, chúng sống lâu hơn, tỉ lệ trẻ sơ sinh sống sót cao hơn, chúng có
nhiều rơm làm nệm hơn, ít chấy rận hơn. Mọi con đều tin như thế. Thực ra mà nói
thì chúng cũng đã quên gần hết những chuyện thời ông Jones rồi. Chúng chỉ biết
rằng cuộc sống hiện nay rất khó khăn, vất vả, chúng thường bị đói, bị rét và hễ
mở mắt ra là chúng phải làm. Trước đây chắc là còn khó khăn nữa. Chúng vui lòng
tin như thế. Ngoài ra, quan trọng hơn nữa là trước đây chúng là nô lệ, bây giờ
chúng được tự do, Chỉ Điểm luôn nhấn mạnh như vậy.
Nhân khẩu ngày một tăng. Mùa thu vừa
rồi có bốn chị lợn nằm ổ cùng một lúc, chúng sinh được những ba mươi mốt con cả
thảy. Tất cả đều là lợn khoang, cả trại chỉ có một mình Napoleon là lợn giống
nên có thể đoán ngay được chúng là con ai. Toàn trại được thông báo rằng hiện
đang tiến hành mua gạch và gỗ, khi nào mua được thì sẽ xây lớp học. Còn hiện
thời thì lũ lợn con sẽ được giao cho Napoleon dạy dỗ trong khu nhà bếp. Lũ lợn
con được đưa ra vườn chơi nhưng bị cấm tiếp xúc với bọn thú con khác loài. Một
điều luật mới cũng được đưa ra trong khoảng thời gian này, ấy là khi gặp nhau
thì tất cả phải đứng sang bên, nhường đường cho lợn đi trước, đồng thời, giống
lợn, không phân biệt chức vụ được đeo băng xanh ở đuôi vào các ngày chủ nhật.
Năm nay là một năm khá thành công,
nhưng tiền thì vẫn thiếu. Còn phải mua gạch, vôi và cát để xây trường học; lại
còn phải tiết kiệm để mua máy móc cho cối xay gió nữa. Rồi phải mua dầu thắp,
nến và đường cho riêng Napoleon (nó cấm các (những) con lợn khác ăn đường vì sợ
chúng sẽ bị tăng trọng) và bao nhiêu thứ khác như dụng cụ, đinh, dây thừng,
than, dây thép, tấm lợp và bánh bích qui cho chó nữa. Phải bán một phần cỏ khô và
khoai tây, hợp đồng bán trứng gà đã tăng lên đến sáu trăm quả mỗi tuần thành
thử số gà gần như không tăng, nếu không nói là giảm vì số trứng chúng để lại ấp
quá ít. Tháng mười hai đã giảm khẩu phần một lần, tháng hai lại bị giảm một lần
nữa và để tiết kiệm, từ nay ban đêm không được thắp đèn trong các chuồng nữa.
Nhưng lũ lợn có vẻ như vẫn sống khoẻ, chí ít con nào cũng lên cân. Một lần, vào
buổi chiều tháng hai, trong khu sân trại bỗng có một mùi thơm nồng, lũ súc vật
chưa từng ngửi thấy mùi này bao giờ. Hoá ra mùi ấy xuất phát từ cái nhà nằm ở
sau bếp, thời còn lão Jones vẫn dùng để nấu bia, nhưng lâu nay bỏ không. Có con
nào đó nói rằng đấy là mùi lúa mạch nấu. Lũ súc vật hít hà mãi cái mùi thơm
nồng, cay cay đó và cố đoán xem tối nay chúng có được ăn "hèm" không.
Nhưng tối hôm đó không có "hèm", đến chủ nhật chúng lại được thông
báo rằng từ nay lúa mạch sẽ để dành riêng cho lũ lợn. Miếng đất cạnh khu vườn
đã được gieo lúa mạch rồi. Sau đó lại có tin nói rằng từ nay mỗi con lợn sẽ được
nửa lít bia một ngày, riêng Napoleon thì được uống hai lít, mà phải uống bằng
cốc pha lê.
Tuy còn nhiều khó khăn, nhưng cuộc
đời vẫn đáng sống hơn xưa rất nhiều. Chưa bao giờ chúng được hát, được nghe nói
chuyện, được đi mít tinh, biểu tình nhiều như bây giờ. Napoleon ra lệnh mỗi
tuần phải có một cuộc Diễu Hành mà nó gọi là Tự Phát, mục đích là để ngợi ca
cuộc đấu tranh và những thành quả của Trại Súc Vật. Đúng giờ qui định tất cả sẽ
rời bỏ ngay công việc, xếp thành đội ngũ, lần lượt là lũ lợn rồi đến ngựa, bò,
cừu và cuối cùng là gà, vịt và đi đều bước xung quanh trang trại. Con gà trống
màu đen của Napoleon luôn luôn đi đầu, còn hai bên đoàn diễu hành là lũ chó.
Chiến Sĩ và Bà Mập mang lá cờ màu xanh giữa có hình sừng và móng và khẩu hiệu
"Đồng chí Napoleon muôn năm". Các buổi mít tinh bao giờ cũng kết thúc
với màn trình bày bài thơ ngợi ca Napoleon và báo cáo của Chỉ Điểm về những
thành tích trong việc tăng gia sản xuất thời gian vừa qua; những dịp lễ lạt
thường có bắn các loạt súng chào mừng nữa. Lũ cừu đặc biệt khoái đi diễu hành,
nếu có con nào phàn nàn (nhất là khi vắng bọn chó và lợn) là diễu hành chỉ tổ
rét và mất thời gian thì chúng lập tức tụng bài cầu nguyện muôn thuở: "Bốn
chân tốt, hai chân xấu", mà chúng tụng to đến nỗi át được mọi (cả những)
lời phàn nàn, hậm hực. Nhưng nói chung là đa số thích những buổi lễ lạt kiểu
ấy. Chúng thấy được an ủi phần nào vì các buổi tụ tập như vậy nhắc nhở chúng
rằng chúng thực sự là chủ nhân của trang trại và mọi việc chúng làm đều là vì
chúng mà thôi. Những bài hát, những cuộc diễu hành, số liệu của Chỉ Điểm, tiếng
súng chào mừng, tiếng gáy của con gà trống và ngọn cờ tung bay trước gió đã
giúp quên đi, dù chỉ trong phút chốc cái đói cồn cào đang hành hạ chúng.
Tháng tư, Trại Súc Vật tự tuyên bố
là Nước Cộng Hòa, cần phải bầu Tổng Thống. Chỉ có một ứng cử viên duy nhất.
Napoleon trúng cử một trăm phần trăm. Ngay hôm đó lại có tin đã tìm thấy những
tài liệu mới chứng tỏ Tuyết Tròn đã cộng tác với lão Jones ngay từ đầu. Hoá ra
là Tuyết Tròn không chỉ sử dụng chiến thuật khôn khéo nhằm làm thất bại Chiến
Dịch Chuồng Bò, như chúng đã thấy trước đây, mà còn đứng hẳn về phía lão Jones
nữa. Chính Tuyết Tròn đã dẫn đầu đoàn người xâm nhập, miệng hô lớn: "Loài
người muôn năm!". Còn những vết thương trên lưng nó, vẫn có mấy con còn
sống trông thấy những vết thương ấy và nhớ rõ rằng đấy chính là vết răng của
Napoleon.
Sau nhiều năm vắng bóng, giữa mùa hè
vừa rồi con Moses bỗng lại xuất hiện. Nó hầu như không thay đổi, vẫn chẳng chịu
làm gì và suốt ngày kể chuyện hão huyền về Núi Xôi. Nó thường đậu trên cành
cây, vẫy vẫy đôi cánh đen và nói hàng giờ liền, miễn là có con nào đó chịu
nghe.
"Ở trên kia, thưa các đồng
chí", Nó vừa nói vừa lấy mỏ chỉ lên trời, "phía trên những đám mây
màu đen kia là Núi Xôi, là nơi các loài vật khốn khổ chúng ta sẽ được yên nghỉ
đời đời."
Nó còn nói rằng nó đã từng bay tới
đó một lần rồi, đã từng trông thấy những cánh đồng cỏ ba lá xanh tốt quanh năm,
trông thấy những khu vườn mọc đầy bánh nhân hạt lanh cũng như đường cục. Thế mà
có nhiều con tin. Chúng nghĩ rằng chúng đang bị đói, khổ, vất vả; thế thì việc
có một thế giới an lành hơn ở đâu đó cũng là lẽ công bằng mà thôi. Nhưng điều
chúng không thể hiểu được chính là thái độ của bọn lợn đối với Moses. Lũ lợn
miệt thị rằng Núi Xôi chỉ là chuyện bịa, nhưng Moses không những không bị đuổi
đi mà còn được cấp một vại bia mỗi ngày.
Cuối cùng thì móng của Chiến Sĩ cũng
khỏi, nó lao vào công việc hăng hơn lúc nào hết. Những con khác cũng phải làm
không khác gì tù khổ sai. Ngoài công việc thường kì của trại và khôi phục cối
xay gió thì còn việc xây trường cho lũ lợn con nữa. Trường học được khởi công
vào tháng ba. Đôi khi tưởng chừng như không thể nào chịu nổi thời gian và cường
độ lao động ấy với một cái dạ dày lép kẹp, nhưng Chiến Sĩ không hề ngã lòng.
Không có một dấu hiệu gì, kể cả trong lời nói cũng như việc làm chứng tỏ sức
lực của nó không còn được như xưa nữa. Tuy thế, tướng mạo của nó có thay đổi
chút ít, da nó không còn được nhuận như trước, hông nó trông cũng nhỏ đi. Mọi
con đều nói: "Có cỏ non là Chiến Sĩ sẽ bình phục ngay ấy mà", nhưng
mùa xuân đã về, cỏ non đã lên xanh mà Chiến Sĩ chẳng hề mập thêm chút nào.
Những khi trông nó gồng mình kéo đá lên khỏi bờ dốc, có cảm tưởng như sức nó đã
kiệt, phải là một ý chí sắt đá lắm mới đứng vững được như thế. Nhìn vào đôi môi,
người tinh có thể thấy rằng nó đang định nói: "Tôi sẽ cố gắng hơn
nữa", nhưng không thể thốt lên lời. Bà Mập và Benjamin lại nhắc nó giữ gìn
sức khoẻ, nhưng nó vẫn bỏ ngoài tai. Ngày sinh nhật lần thứ mười hai đang đến
gần. Nó chỉ quan tâm đến một việc duy nhất sau đây: làm sao gom được thật nhiều
đá trước khi nghỉ hưu, còn sau đó muốn ra sao thì ra.
Một hôm, lúc ấy đã khá khuya, bỗng
có tin Chiến Sĩ gặp nạn. Hoá ra là nó đi kéo xe đá một mình. Không phải là tin
đồn nữa, sự thật là thế, mấy phút sau có hai con bồ câu bay về.
"Chiến Sĩ bị ngã! Nó ngã nằm
nghiêng, không dậy được nữa rồi!", hai con bồ câu thông báo.
Gần một nửa số súc vật trong trang
trại lao về phía gò đất. Chiến Sỹ nằm đó, giữa hai càng xe, cổ vươn ra, nhưng
yếu quá, không thể nhấc đầu lên được. Lưng nó đẫm mồ hôi, hai mắt trông dại hẳn
đi. Một dòng máu nhỏ đang rỉ ra khỏi miệng. Bà Mập quì xuống bên cạnh.
"Chiến Sĩ!", nó hỏi,
"Anh sao vậy?"
"Không thở được nữa rồi",
Chiến Sỹ thều thào nói, "Nhưng không sao. Tôi nghĩ các bạn sẽ dựng lại
được cối xay gió. Có nhiều đá lắm rồi. Dù sao cũng chỉ một tháng nữa là tôi sẽ
nghỉ hưu thôi. Nói thật, tôi mong được nghỉ hưu lắm. Benjamin cũng già rồi, nếu
nó cũng được nghỉ hưu cùng lúc với tôi để cho có bạn thì tốt biết bao."
"Đi báo cho Chỉ Điểm
ngay", Bà Mập nói.
Tất cả lập tức chạy về khu nhà chính
để tìm Chỉ Điểm. Chỉ có Bà Mập và Benjamin ở lại. Benjamin yên lặng nằm xuống
bên cạnh Chiến Sĩ và dùng đuôi đuổi ruồi cho nó. Khoảng mười lăm phút sau thì
Chỉ Điểm tới, mặt lộ đầy vẻ thương cảm và sốt sắng. Nó nói rằng đồng chí
Napoleon rất buồn khi biết tin tai nạn đã xảy ra với một trong những người lao
động trung thành nhất của trang trại và đang sắp xếp để đưa Chiến Sĩ đến chữa
tại bệnh viện ở Willingdon. Nhưng lũ súc vật lại cảm thấy có cái gì đó không
yên tâm vì từ trước tới nay ngoài Mollie và Tuyết Tròn ra thì chưa có con nào
đi khỏi trang trại, vả lại chúng cũng không thích giao một đồng chí bệnh hoạn
vào tay con người. Nhưng Chỉ Điểm dễ dàng thuyết phục được chúng rằng các bác
sĩ thú y ở Willingdon sẽ chữa cho Chiến Sĩ tốt hơn là cứ để nó nằm ở trại.
Khoảng nửa tiếng sau thì Chiến Sĩ đứng dậy được, nó lết dần về chuồng. Bà Mập
và Benjamin lấy rơm trải cho nó một cái ổ khá dày.
Chiến Sĩ nằm trong chuồng hai ngày
liền. Lũ lợn tìm được một chai thuốc màu hồng khá to ở trong tủ thuốc đặt tại
phòng tắm và đem ra cho nó. Bà Mập bắt nó uống hai lần một ngày, ngay sau bữa
ăn. Buổi tối Bà Mập vào chuồng của Chiến Sĩ để tâm sự, trong khi Benjamin thì
đuổi ruồi cho nó. Chiến Sĩ nói rằng nó chẳng có gì phải phàn nàn. Nếu lần này
hồi phục được thì nó có thể sống thêm khoảng ba năm nữa, nó mong được sống
những ngày thanh thản còn lại trong góc cái bãi cỏ rộng dành cho những con về
hưu. Nó sẽ dành trọn thời gian rảnh rỗi để học tập, nâng cao trình độ. Nó bảo
nó sẽ dành toàn bộ quãng đời còn lại để học cho thuộc hai mươi hai chữ cái.
Benjamin và Bà Mập chỉ có thể chăm
sóc Chiến Sĩ sau giờ tan tầm, thế mà cái xe đến bắt nó lại xuất hiện vào lúc
gần trưa. Mấy con lợn đang chỉ huy cả bọn gieo hạt cải ở ngoài đồng thì bỗng
thấy Benjamin phi nước đại từ trang trại tới, miệng gào đến lạc cả giọng. Đây
là lần đầu tiên chúng thấy Benjamin xúc động như vậy, cũng là lần đầu tiên
chúng thấy nó phi nước đại.
"Mau lên! Mau lên!", Nó
gào lên, "Lại đây mau lên! Họ mang Chiến Sỹ đi rồi!"
Cả bọn lập tức bỏ việc và cùng chạy
về phía khu nhà chính, không đợi lũ lợn có cho phép hay không. Quả nhiên, trong
sân có một cái xe song mã đóng kín cửa, bên sườn xe có ghi hàng chữ khá to, anh
chàng đánh xe đội một cái mũ phớt trông rất láu cá. Chiến Sĩ không còn trong
chuồng nữa.
Lũ súc vật tập trung quanh chiếc xe.
"Đi khoẻ nhá, Chiến Sĩ!",
Chúng đồng thanh hô, "Tạm biệt!"
"Ngu, ngu thế", Benjamin
vừa gào thét, vừa chạy xung quanh, chân nện xuống đất ầm ầm, "Ngu, không
nhìn thấy chữ gì à?"
Cả bọn như tỉnh ngộ, yên lặng nhìn
nhau. Con lừa Muriel bắt đầu đánh vần, nhưng Benjamin đã đẩy nó ra và đọc:
"Lò mổ Alfred Simmond,
Willingdon. Mua bán thịt, xương, da ngựa. Cung cấp cũi chó. Đã hiểu chưa? Chúng
mang Chiến Sỹ đi làm thịt đấy!"
Một tiếng thét kinh hoàng cùng phát
ra từ mọi lồng ngực. Đúng lúc đó, anh chàng đánh xe ra roi và hai con ngựa kéo
bắt đầu chạy nước kiệu. Cái xe từ từ đi ra khỏi sân. Cả lũ cùng chạy theo sau,
vừa chạy vừa khóc như mưa như gió. Bà Mập lao lên. Cái xe cũng tăng tốc. Bà Mập
cố phóng lên, nhưng sức nó không còn, làm sao theo nổi hai con kia.
"Chiến Sĩ!", Nó gào lên,
"Chiến Sĩ! Chiến Sĩ! Chiến Sĩ!"
Không biết Chiến Sĩ có nghe thấy
tiếng gọi từ bên ngoài hay không, nhưng cái mõm với một vệt màu trắng chạy dọc
sống mũi của nó có lấp ló phía trong cái cửa sổ nhỏ ở đằng sau xe.
"Chiến Sĩ!", Bà Mập gào
đến lạc giọng, "Chạy đi! Chạy đi! Chạy mau lên! Chúng giết mày đấy!"
Tất cả đồng thanh thét lên:
"Chạy đi, Chiến Sĩ , Chạy
đi!"
Nhưng hai con ngựa đã tăng tốc, cái
xe ngày một đi xa hơn. Không biết là Chiến Sĩ có nghe rõ Bà Mập nói gì hay
không, nhưng không còn trông thấy mõm nó bên trong cửa sổ nữa, đồng thời người
ta nghe thấy tiếng chân nó nện vào thành xe đều và vang không khác gì tiếng
trống ngũ liên. Đấy là Chiến Sĩ đạp vào thành xe để tìm lối thoát. Trước đây
thì chỉ vài cái đạp như thế cũng đủ làm cho chiếc xe này biến thành củi rồi.
Nhưng lạy chúa tôi! Sức nó nay còn đâu và tiếng đạp cứ nhỏ dần, nhỏ dần rồi im
hẳn. Không biết làm thế nào, lũ súc vật đành quay ra cầu cứu hai con ngựa kéo,
xin chúng đừng chạy nữa.
"Các đồng chí! Các đồng
chí!", Chúng lại đồng thanh gào lên, "Các đồng chí có biết đang mang
người anh em của mình đi đâu không?"
Nhưng hai con vật ngu lâu, đầu óc
tăm tối đó không hiểu, chúng chỉ khẽ vểnh tai lên và càng chạy nhanh thêm.
Không còn thấy Chiến Sĩ thấp thoáng bên trong cái cửa sổ nhỏ nữa. Có con nghĩ
đến việc chạy ra để đóng cánh cổng lớn lại, nhưng quá trễ mất rồi, chiếc xe đã
ra đến đường lớn và đi xa dần. Từ đấy không ai còn trông thấy Chiến Sĩ nữa.
Ba ngày sau có thông báo rằng Chiến
Sĩ đã mất tại bệnh viện ở Willingdon, mặc dù đã được chăm sóc rất tận tình.
Chính Chỉ Điểm thông báo như thế. Nó còn nói rằng nó đã ở cạnh Chiến Sĩ trong
giờ phút lâm chung.
"Thật vô cùng cảm động",
Chỉ Điểm vừa nói vừa lau nước mắt, "Tôi ngồi bên Chiến Sĩ khi đồng chí ấy
trút hơi thở cuối cùng. Trước khi chết đồng chí ấy đã yếu lắm, không nói được
nữa, nhưng đồng chí ấy vẫn cố thì thầm nói rằng đồng chí ấy chỉ tiếc không được
tham dự lễ khánh thành cối xay gió. "Tiến lên, các đồng chí - đồng chí ấy
nói - Vì sự nghiệp của cuộc Khởi Nghĩa hãy tiến lên! Trại Súc Vật muôn năm!
Đồng chí Napoleon muôn năm! Đồng chí Napoleon bao giờ cũng đúng!" - Đấy
chính là những lời nói cuối cùng của đồng chí ấy."
Lúc đó thái độ của Chỉ Điểm đột
nhiên thay đổi. Nó ngồi im một lúc, sau đó nhìn quanh khắp lượt rồi mới tiếp
tục câu chuyện.
Nó bảo rằng từ khi đưa Chiến Sỹ đi
thì ở trại đã lan truyền những tin đồn thất thiệt. Một số con nhìn thấy chữ
"Lò mổ" trên thành xe đã vội kết luận rằng Chiến Sĩ bị đưa đi làm
thịt. Chỉ Điểm nói rằng nó không thể tin là các con vật trong trại lại ngu ngốc
đến thế. Không thể tin, Chỉ Điểm vừa nói vừa vẫy đuôi và nhảy loạn xạ lên, là
các con vật trong trại lại có thể nghĩ về lãnh tụ kính yêu, nghĩ về đồng chí
Napoleon theo chiều hướng đó! Mọi việc đơn giản hơn rất nhiều. Số là ông bác sĩ
thú y đã mua lại cái xe của lò mổ, nhưng ông ta chưa kịp xoá tên chủ cũ đi. Lí
do chỉ có vậy thôi.
Nghe nói thế, cả bọn đều cảm thấy
yên lòng. Còn khi Chỉ Điểm tả rõ cảnh chăm sóc, cũng như những thuốc men đắt
tiền mà Napoleon hạ lệnh mua để chạy chữa cho Chiến Sĩ trong những ngày cuối
cùng vừa qua thì những nghi ngờ lâu nay được giải toả hẳn và nỗi buồn mất bạn
vơi đi bội phần: dù sao thì Chiến Sĩ cũng được mồ yên mả đẹp rồi.
Chính Napoleon tham dự cuộc họp vào
sáng chủ nhật và đọc một bài diễn văn tưởng niệm Chiến Sĩ. Chúng ta không có
điều kiện, nó nói, đưa thi hài của người đồng chí quá cố về trang trại, nhưng
nó đã ra lệnh làm một vòng hoa thật lớn, hoa lấy ngay trong vườn trại và đưa
đến Willingdon để đặt lên mộ Chiến Sĩ. Lũ lợn sẽ tổ chức bốn chín ngày [1] thật
to cho Chiến Sĩ, nó hứa như vậy. Napoleon kết thúc bài diễn văn bằng cách nhắc
lại hai khẩu hiệu của Chiến Sĩ: "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa" và
"Đồng chí Napoleon lúc nào cũng đúng". Napoleon còn bảo rằng tất cả
các con vật trong trang trại nên học tập Chiến Sĩ, lấy khẩu hiệu của Chiến Sĩ
làm khẩu hiệu hành động của chính mình.
Đúng hôm
tổ chức bốn chín ngày cho Chiến Sỹ thì có một cái xe chở một thùng gỗ lớn đến
toà nhà chính. Tối hôm đó từ trong toà nhà vọng ra tiếng hát, tiếng tranh luận
ồn ào và vào lúc mười một giờ thì người ta nghe thấy tiếng cốc thủy tinh vỡ
loảng xoảng, rồi tất cả chìm vào màn đêm yên lặng. Toà nhà chính đóng cửa kín
mít cho đến tận trưa hôm sau, trong khi đó lại có tin đồn rằng lũ lợn đã kiếm
được tiền và mua hẳn một thùng whisky.
Chương 10
Nhiều năm đã trôi qua. Xuân đi, đông
lại, cuộc đời loài vật như bóng câu qua cửa sổ. Chỉ còn Benjamin, Bà Mập, con
quạ Moses và một vài con lợn là còn nhớ được "ngày xưa", khi chưa
Khởi Nghĩa.
Muriel đã chết. Bluebell, Jessie và
Pincher cũng không còn. Ông Jones cũng chết rồi, chết trong trại tế bần dành
cho người nghiện. Không ai nhắc đến Tuyết Tròn nữa. Chỉ có vài con vật còn nhớ
Chiến Sĩ. Bà Mập đã thành một con ngựa già béo phị, chân chậm, mắt mờ. Nó đã
quá tuổi hưu hai năm, nhưng thực ra, đã có con nào được hưu trí đâu. Không còn
ai nhắc đến chuyện ngăn một mảnh đất cho những con già cả nữa. Napoleon đã
thành một con lợn đực to sụ, phải nặng tạ rưỡi là ít. Chỉ Điểm cũng béo lắm,
mắt híp lại, gần như không trông thấy gì. Chỉ có Benjamin là vẫn như xưa, tuy
râu có trắng ra và sau khi Chiến Sĩ mất thì càng tỏ ra lầm lì, ít nói hơn.
Trại Súc Vật có thêm nhiều thành
viên mới, tất nhiên là không nhiều như chúng nghĩ lúc đầu. Một số con được sinh
ra ngay tại đây, đối với chúng, cuộc Khởi Nghĩa chỉ là một truyền thống mù mờ,
được truyền khẩu cho nhau. Một số được mua từ nơi khác về, những con này chưa
từng nghe ai nói chuyện đó trước khi đến đây. Ngoài Bà Mập, trại còn có thêm ba
con ngựa nữa. Đấy là những con to, khỏe, chăm làm, tốt bụng nhưng ngu lắm.
Không con nào thuộc quá chữ B. Chúng tin tưởng tuyệt đối vào Súc Sinh Kinh và
những câu chuyện về cuộc Khởi Nghĩa, đặc biệt là những chuyện do Bà Mập, mà
chúng coi như mẹ, kể lại; nhưng có vẻ như chúng cũng chẳng hiểu mô tê gì.
Trang trại được tổ chức tốt và ngày
một phồn vinh hơn; chúng còn mở rộng thêm bằng cách mua của Pilkington hai khu
đất nữa. Cối xay gió đã hoàn thành, chúng mua được cả máy đập lúa, máy nâng hạ
và còn xây được thêm nhiều toà nhà. Whymper cũng mua được cho mình một cỗ xe
nhỏ. Chúng không lắp máy phát điện lên cối xay gió mà dùng nó để xay xát, nhờ
thế chúng kiếm được khối tiền. Chúng lại đang xây một cối xay gió nữa, sẽ lắp
máy phát điện ở đấy, chúng bảo thế. Nhưng những thứ xa xỉ như đèn điện, nước
nóng, tuần làm việc ba ngày mà chúng từng mơ mộng thời còn Tuyết Tròn thì không
được nhắc đến nữa. Napoleon từng tuyên bố rằng những tư tưởng đại loại như vậy
là trái hoàn toàn với tinh thần của Súc Sinh Kinh. Hạnh phúc chân chính, nó
bảo, là lao động hăng say và sống đạm bạc, tiết kiệm.
Trang trại giàu có thêm, nhưng ngoại
trừ lũ lợn và chó ra, đời sống của các con khác thì vẫn như xưa. Cũng có thể
một phần là do có nhiều lợn và chó quá. Bọn này cũng làm việc, dĩ nhiên là theo
cách của mình. Chỉ Điểm giải thích không mệt mỏi rằng tổ chức và kiểm tra công
tác của trại là những việc phải làm thường xuyên, liên tục. Mà những giống khác
đâu có đảm đương được, việc này cần nhiều trí thông minh lắm. Thí dụ, Chỉ Điểm
bảo rằng lũ lợn mất rất nhiều công sức vào việc soạn những cái gọi là "tài
liệu", "dữ liệu", "báo cáo", "biên bản",
"ghi nhớ". Đấy là những tờ giấy to, viết đầy chữ và sau khi viết xong
thì đem vào lò đốt. Nhờ thế mà trang trại mới được phồn vinh như ngày nay đấy,
Chỉ Điểm thường nói như vậy. Dù sao mặc lòng, những thứ ấy chẳng thể làm lũ
chó, lợn ấy no được, mà chúng phàm ăn lắm.
Cuộc sống của những con khác thì vẫn
như xưa. Ngày chúng thường bị đói, đêm chúng ngủ trên ổ rơm, nước thì uống ngay
ở dưới ao, làm việc ngoài đồng trống, mùa đông thì mất ngủ vì rét, mùa hè thì
khổ vì ruồi. Thỉnh thoảng những con có tuổi cố nhớ lại xem nay đời sống của
chúng có khá hơn ngay sau Khởi Nghĩa, khi chúng vừa đuổi lão Jones đi, hay
không. Nhưng chúng không nhớ nổi. Không có gì cho chúng so sánh: trong đầu
chúng chỉ có mỗi những số liệu của Chỉ Điểm, những con số luôn luôn chứng tỏ
rằng mọi thứ đều được cải thiện, đều tốt thêm một bước mỗi ngày. Thôi thì đành
vậy vả lại chúng cũng chẳng có nhiều thời gian để mà suy nghĩ lung tung. Chỉ có
Benjamin già nua là khẳng định rằng nó nhớ hết, nhớ đến từng chi tiết mọi việc
đã qua và biết rõ rằng chúng chưa bao giờ khổ hơn cũng chẳng bao giờ được sướng
hơn, vẫn là đói, là bán mặt cho đất bán lưng cho trời, là bị loè bịp; qui luật
cuộc đời vốn là như thế, nó thường bảo như vậy.
Dù sao chúng vẫn cứ hi vọng. Hơn thế
nữa, chúng còn luôn tự hào được là công dân của Trại Súc Vật. Trong nước này,
mà là nước Anh hẳn hoi đấy nhé, đây là trang trại duy nhất của súc vật và do
súc vật quản lí! Tất cả mọi con vật, từ những con nhỏ nhất cho đến những con
mới được mua từ cách xa cả chục cây số về, đều tự hào như thế. Nhất là khi
chúng nghe thấy tiếng súng nổ, khi trông thấy lá cờ xanh tung bay là tim chúng
lại đập rộn rã, khi ấy, dù đang nói chuyện gì chúng cũng quay lại đề tài về
những năm tháng hào hùng, về việc lật đổ lão Jones, về việc thiết lập Bảy Điều
Răn và về những trận chiến đấu oanh liệt chống lũ người xâm lược. Chúng cũng
không quên nhắc nhở nhau những kì vọng thuở ban đầu. Chúng tin rằng lời tiên
tri của Thủ Lĩnh già về ngày thành lập Nước Cộng Hòa Súc Vật trên toàn lãnh thổ
Anh quốc, ngày con người bị tống khứ khỏi sứ sở này nhất định sẽ tới. Ước mơ
của chúng sẽ thành hiện thực, nhất định ngày đó sẽ tới, dù còn lâu, dù rằng tất
cả những con đang sống hiện nay sẽ không được chứng kiến, nhưng ngày đó nhất
định sẽ tới. Chúng cũng không quên bài "Súc Sinh Anh quốc", con nào
cũng biết hát bài này, nhưng chúng chỉ dám hát thầm với nhau mà thôi. Dù cuộc
sống còn nhiều khó khăn, dù không phải tất cả ước mơ của chúng đều được thực
hiện, nhưng trong thâm tâm chúng biết rằng chúng là những con vật đặc biệt. Dù
chúng chưa được no, nhưng chúng không phải làm để nuôi bọn người tàn độc; dù
chúng còn phải lao động vất vả, nhưng đấy là chúng làm cho chính mình. Không
con nào đi hai chân, không còn quan hệ chủ tớ. Tất cả đều bình đẳng.
Một hôm, đấy là đầu mùa hạ, Chỉ Điểm
bỗng ra lệnh cho lũ cừu đi theo nó ra cánh đồng bỏ hoang bên ngoài trại, nơi có
cả một rừng bạch dương non. Lũ cừu ở đó cả ngày, tha hồ nhai lá, dĩ nhiên là
dưới sự chỉ đạo của Chỉ Điểm. Tối hôm đó Chỉ Điểm quay lại trang trại một mình,
hôm đó thời tiết tốt nên nó bảo lũ cừu ngủ ngay ngoài đồng cho mát. Chúng ở lại
đó suốt một tuần liền. Ngày nào Chỉ Điểm cũng ra với lũ cừu. Theo như nó nói
thì nó đang dạy lũ cừu một bài hát mới mà yên tĩnh thì học mới mau
"vào".
Một chiều, hôm ấy lũ cừu đã học xong
và trở về rồi, trong khi cả bọn đang quay về sau một ngày lao động thì chúng
bỗng nghe thấy tiếng ngựa kêu thất thanh từ phía trại vọng lại. Quá hỏang sợ,
tất cả lập tức đứng như trời trồng. Đấy là tiếng kêu của Bà Mập. Nó lại kêu lên
lần nữa, tất cả lập tức phóng thật nhanh vào sân trại để xem có chuyện gì. Và
chúng nhìn thấy chính cái điều đã làm Bà Mập hoảng loạn.
Đấy là một con lợn đang bước đi bằng
hai chân sau.
Vâng, chính là Chỉ Điểm đang đi. Có
vẻ vụng về, dĩ nhiên rồi, một phần vì chưa quen, một phần vì quá nặng, nhưng nó
vẫn giữ được thăng bằng và đi từ bên này sang tận bên kia sân. Một lúc sau thì
từ cửa chính ngôi nhà cả đàn lợn bước ra, tất cả, không trừ con nào, đều đi
bằng hai chân sau. Một số con bước đi một cách tự tin, một số con còn lảo đảo,
giá có cái ba toong thì vững hơn, nhưng tất cả đều đi một vòng quanh sân mà
không con nào bị ngã. Cuối cùng là tiếng chó sủa dữ dội, tiếng gà gáy vang rền
và Napoleon bước ra, lưng thẳng tắp, dáng oai vệ, nó nhìn khắp lượt, xung quanh
tíu tít bày cừu.
Chân trước nó cầm một cái roi to.
Xung quanh lặng ngắt như tờ. Ngạc
nhiên pha lẫn hoảng sợ, lũ súc vật tụ vào một góc để nhìn đàn lợn nối nhau đi
quanh sân. Thế giới đảo điên hết rồi sao? Phút hoảng loạn ban đầu rồi cũng qua
và dù có sợ bầy chó, dù bao năm đã quen không dám phàn nàn, không dám phản đối,
lần này chắc chắn chúng sẽ lên tiếng phản đối. Nhưng đúng lúc đó, như có hiệu
lệnh, bọn cừu đồng thanh gào lên:
"Bốn chân tốt, hai chân tốt
hơn! Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn! Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn!"
Chúng tụng như thế năm phút liền,
không ngưng nghỉ. Khi lũ cừu im thì đàn lợn đã vào hết trong nhà rồi, có phản
đối cũng chẳng ai nghe.
Benjamin cảm thấy như có con nào
đang lấy mũi cọ vào vai mình. Nó quay đầu lại. Hoá ra là Bà Mập. Đôi mắt đã mờ
của nó trông càng buồn hơn lúc nào hết. Nó khẽ ngoạm vào bờm của Benjamin và
kéo ra phía đầu hồi của nhà kho lớn. Chúng đứng đó, yên lặng ngắm những dòng
chữ màu trắng trên bức tường sơn hắc ín.
"Tôi chẳng còn trông thấy gì cả
- Cuối cùng Bà Mập lên tiếng - Ngay khi còn trẻ tôi cũng có đọc được chữ nào
đâu. Nhưng tôi thấy hình như bức tường trông khác lắm. Bảy Điều Răn vẫn thế
chứ, anh Benjamin?"
Đây là lần đầu tiên Benjamin từ bỏ
thói quen cố hữu của nó và khẽ đọc cho Bà Mập nghe. Trên bức tường chỉ còn ghi
một Điều Răn duy nhất như sau:
MỌI CON VẬT SINH RA ĐỀU BÌNH ĐẲNG,
NHƯNG CÓ MỘT SỐ CON BÌNH ĐẲNG HƠN NHỮNG CON KHÁC.
Sau đó thì ngay cả việc những con
lợn đốc công mang theo roi ra đồng cũng không làm chúng ngạc nhiên nữa. Chúng
cũng không ngạc nhiên khi thấy bọn lợn mua đài, rồi thảo luận kí hợp đồng đặt
máy điện thoại cũng như đặt mua các báo như John Bull [2] , Tits-Bit 1 và Daily
Mirror 2 . Chúng cũng không ngạc nhiên khi trông thấy Napoleon mồm ngậm tẩu
thuốc đi dạo trong vườn, cũng như khi thấy lũ lợn lấy quần áo của ông Jones ra
diện nữa. Napoleon chọn cho mình chiếc áo khoác đen, quần ống túm, ủng da;
trong khi con lợn cái mà nó thích nhất được bộ lụa tơ tằm mà bà Jones thường
mặc khi đi nhà thờ, vào những ngày chủ nhật.
Một tuần sau, buổi chiều, có rất nhiều
xe cộ đi vào trại. Đấy là đại biểu các trang trại lân cận được mời đến thăm
quan Trại Súc Vật. Quan khách rất ngạc nhiên khi được xem các cánh đồng, các
công cụ sản xuất của trại, đặc biệt là cối xay gió. Lúc đó các con vật đang nhổ
cỏ trên cánh đồng trồng củ cải. Chúng làm việc chăm chỉ, ít khi ngẩng đầu lên.
Chúng cũng không biết trong hai loại đó, quan khách và lợn, bọn nào đáng sợ
hơn.
Tối hôm đó có tiếng hát và tiếng
cười rất to vẳng lại từ phía ngôi nhà chính. Lũ súc vật bỗng cảm thấy tò mò,
muốn biết trong nhà đó đang nói chuyện gì vì đây là lần đầu tiên con người và
con vật gặp nhau như những đối tác bình đẳng. Rồi không con nào bảo con nào,
chúng cùng nằm xuống và im lặng bò đến gần toà nhà chính.
Chúng hơi lưỡng lự khi bò đến cổng,
nhưng Bà Mập đã tiến lên hàng đầu. Khi đến gần toà nhà thì chúng nhón gót đứng
lên, những con đủ chiều cao có thể nhìn được qua cửa sổ. Bên trong, có sáu điền
chủ và sáu con lợn xuất chúng nhất đang ngồi xung quanh một cái bàn dài.
Napoleon ngồi ngay đầu bàn, chỗ trang trọng nhất. Có vẻ như lũ lợn đã quen với
việc ngồi ghế từ lâu. Cả bọn vừa đánh bài, nhưng lúc ấy đã ngưng, chắc là để
nâng cốc chúc mừng nhau. Một chiếc bình khá to được chuyền tay nhau và tất cả
các li đều được rót đầy bia. Không ai để ý đến lũ súc vật đang tò mò nhìn qua
cửa sổ.
Ông Pilkington, Trại Cáo, tay cầm li
bia, đứng dậy. Ông nói rằng sau đây ông sẽ đề nghị nâng li chúc mừng. Nhưng ông
xin được nói vài lời trước đã.
"Thật là vô cùng phấn khởi -
ông nói - đối với ông, cũng như đối với tất cả những người đang có mặt ở đây
hôm nay, vì giai đoạn nghi kị và hiểu lầm đã chấm dứt". Đã có thời kì, dĩ
nhiên là ông cũng như những người có mặt ở đây hôm nay không hề muốn như thế,
nhưng rõ ràng là đã có những thời kì mà những người xung quanh nhìn các chủ
nhân đáng kính của Trại Súc Vật với một thái độ, không thể nói là thù địch,
nhưng với một sự thiếu thiện cảm. Đáng tiếc là đã xảy ra một vài va chạm, đã
lưu truyền một vài quan niệm sai lầm. Có ý kiến cho rằng một trang trại của lợn
và do lợn quản lí là một điều bất bình thường và không nghi ngờ gì rằng trại
này sẽ tạo ra những ảnh hưởng không hay cho những trang trại xung quanh. Nhiều
điền chủ, phải nói là khá nhiều, không hề điều nghiên, đã vội kết luận rằng ở
đây sẽ có nhiều hành vi quá trớn và thiếu kỉ cương. Họ lo lắng về ảnh hưởng của
trang trại này không chỉ đối với súc vật mà còn đối với cả những người làm thuê
cho họ nữa. Nhưng tất cả những mối ngờ vực đó đã chấm dứt. Hôm nay, ông và các
đồng nghiệp đã được mời thăm quan trang trại, họ đã xem xét rất kĩ, họ đã tìm
thấy gì? Không chỉ công nghệ hiện đại nhất mà cả kỉ cương, trật tự của trại đều
xứng đáng cho các trang trại khắp nơi học tập. Ông tin không nói sai khi bảo
rằng những loài súc vật hạ đẳng ở đây làm việc nhiều hơn nhưng lại nhận được
khẩu phần ít hơn so với các trại khác trong khu vực. Tóm lại, ông và các đồng
nghiệp đã trông thấy ở đây nhiều điều đáng phải áp dụng ngay.
Ông nói xin chúc tình hữu nghị giữa
Trại Súc Vật và các trại khác đã, đang và sẽ tồn tại mãi mãi. Quyền lợi của
loài lợn và của loài người không hề và không được mâu thuẫn nhau. Cả hai đều có
chung mục đích và có chung những khó khăn. Vấn đề sức lao động thì ở đâu chả
giống nhau, có phải thế không? Đến đây thì rõ ràng là Pilkington định nói một
câu khôi hài đã chuẩn bị sẵn từ lâu, nhưng buồn cười qua, không thể thốt thành
lời. Sau một lúc cố gắng đè nén tình cảm, Pilkington nói một câu như sau:
"Nếu các bạn phải xử lí những
loài vật hạ đẳng, thì chúng tôi, chúng tôi cũng phải xử lí các giai cấp hạ
đẳng."
Đáp lại câu nói ý vị đó 3 là tiếng
cười tưởng muốn vỡ nhà, Pilkington lại chúc mừng lũ lợn về việc ăn ít, làm
nhiều và kỉ cương, nề nếp của trại.
Và bây giờ, Pilkington đề nghị mọi
người cùng đứng dậy, đổ đầy bia vào li.
"Thưa các ngài!",
Pilkington kết thúc bài diễn văn như vậy, "Thưa các ngài, xin các ngài
cùng nâng cốc chúc Trại Súc Vật ngày càng thịnh vượng."
Tiếng vỗ tay, tiếng dậm chân ầm ầm.
Napoleon khoái bài diễn văn đến nỗi đến chạm cốc với Pilkington rồi mới uống.
Khi tiếng vỗ tay đã dịu xuống, thì Napoleon, lúc đó vẫn đứng, tuyên bố rằng nó
cũng xin được phát biểu vài câu.
Napoleon bao giờ cũng nói ngắn và đi
ngay vào thực chất vấn đề. Napoleon bảo rằng nó cũng rất mừng là đã thanh toán
hết mọi hiểu lầm. Trước đây từng có những tin đồn, chắc chắn là do những thế
lực thù địch tuyên truyền, rằng dường như nó và các cộng sự đang theo đuổi
những ý tưởng phá hoại, nếu không nói là có tính cách mạng. Người ta vu cho
chúng ý định kích động súc vật trong các trại khác đứng lên khởi nghĩa. Vu
khống, bịa đặt từ đầu tới cuối! Ước muốn duy nhất của chúng, hiện nay cũng như
trong quá khứ, là được sống trong hoà bình và có quan hệ làm ăn bình thường với
những người láng giềng. Trại mà nó được vinh dự lãnh đạo, Napoleon nói thêm, là
một loại hợp tác xã. Tất cả những thứ nằm dưới sự quản lí của nó là tài sản
chung của cả loài lợn trong trại.
Napoleon nói, nó tin là mọi nghi ngờ
đã được giải toả và những thay đổi gần đây càng làm tăng thêm sự tin cậy lẫn
nhau hơn nữa. Cho đến nay các con vật trong trang trại có một thói quen không
hay là gọi nhau bằng "Đồng chí". Thói quen này sẽ bị bãi bỏ. Còn một
thói quen nữa, không biết bắt đầu từ khi nào, ấy là việc sáng nào cũng đi thành
hàng ngũ trong sân, xung quanh một cái sọ heo cắm trên cọc. Thói quen này cũng
bị bãi bỏ và cái đầu heo đã được đem chôn rồi. Các vị khách chắc đã có dịp
trông thấy lá cờ xanh tung bay. Nếu quả họ đã trông thấy thì chắc chắn là họ
phải nhận ra rằng biểu tượng sừng và móng màu trắng cũng đã bị xóa bỏ rồi. Từ
nay trở đi lá cờ sẽ chỉ có một màu xanh tinh khiết mà thôi.
Nó nói rằng nó xin phép được sửa lại
chút xíu bài diễn văn vô cùng súc tích và đầy thiện ý của ngài Pilkington.
Trong suốt bài diễn văn ngài Pilkington đã gọi trại này là Trại Súc Vật. Ngài
Pilkington dĩ nhiên không thể biết, vì hôm nay, đây là lần đầu tiên Napoleon
tuyên bố hủy bỏ tên Trại Súc Vật. Từ nay trở đi trại sẽ lấy tên là Điền Trang,
cần phải gọi như thế vì từ nguyên uỷ trại này vốn vẫn mang tên như thế.
"Thưa các ngài!", Napoleon
kết luận, "Tôi đề nghị các ngài nâng cốc chúc mừng, nhưng với một chút xíu
sửa đổi. Xin các ngài rót đầy cốc đi đã. Xin các ngài nâng cốc chúc Điền Trang
ngày càng thịnh vượng!"
Tiếng vỗ tay vang lên, mọi người cạn
cốc. Nhưng những con vật đang đứng bên ngoài thì thấy như đang xảy ra một
chuyện kì lạ. Tại sao mặt những con heo lại thành như thế kia nhỉ? Đôi mắt đục
mờ của Bà Mập hết nhìn con này lại nhìn sang con khác. Con thì cằm có đến năm
ngấn, con lại có bốn, con thì có ba. Tại sao mọi thứ lại trở nên mờ ảo và thay
đổi nhanh thế nhỉ? Tiếng vỗ tay chấm dứt, bàn tiệc quay lại với ván bài bỏ dở,
những con đứng xem bên ngoài lục tục bò trở ra.
Nhưng chúng vừa bò cách khoảng hai
mươi mét thì tất cả cùng dừng lại. Có tiếng hò hét ầm ĩ vọng ra từ toà nhà.
Chúng lập tức quay lại và tiếp tục nhìn qua cửa sổ. Cuộc tranh cãi đang hồi
quyết liệt. Có tiếng hét, tiếng đập bàn, tiếng tranh luận và những ánh mắt nghi
kị. Nguyên nhân cuộc tranh cãi có lẽ là do Napoleon và Pilkington đưa ra con
đầm pích cùng một lúc.
Mười hai cái miệng tức giận cùng lên
tiếng, có trời mới phân biệt được ai với ai. Bọn súc vật không còn để ý đến mặt
mấy con lợn bên trong nữa. Chúng nhìn lợn rồi lại nhìn người, nhìn người rồi
lại nhìn lợn, một lúc sau thì chúng chịu, không thể phân biệt được đâu là
người, đâu là lợn nữa.
Tháng 11 năm 1943 - tháng 2 năm 1944
1 Tạp chí ra hàng tháng, thường đăng
các bài báo, truyện ngắn, tranh có tính cách giải trí. Xuất bản từ năm 1895.
2 Tờ báo ra hàng ngày, dành cho độc
giả bình dân, ngả về Đảng Lao động, thường đăng nhiều bài giật gân, quảng cáo
do tập đòan Mirror Group Newspaper phát hành.
In 3 triệu bản mỗi kì. Xuất bản từ
năm 1903.
No comments:
Post a Comment