Quan sát tình hình chính trị Việt Nam gần đây, chúng ta không thể
không đặt câu hỏi: nhà cầm quyền tham nhũng, khinh rẻ dân chúng và khiếp
nhược trước Trung Quốc đến như vậy mà tại sao dân chúng nói chung vẫn
im lặng và một số không ít người vẫn tiếp tục ủng hộ họ?
Chúng ta tạm thời gạt bỏ câu hỏi thứ nhất. Cái gọi là im lặng của dân
chúng bao giờ cũng là một bí ẩn. Im lặng có nhiều ý nghĩa và xuất phát
từ nhiều lý do. Có sự im lặng của sự thỏa mãn nhưng cũng có sự im lặng
của sự bất bình. Có sự im lặng của cảnh trời trong mây đẹp nhưng cũng có
sự im lặng trước bão tố. Không ai biết trước được. Ở các xứ độc tài,
nơi không có các cuộc điều tra dư luận lại càng không thể biết được. Năm
ngoái, trước khi Hosni Mubarak bị lật đổ và trước khi Muammar Gaddafi
bị bắn chết, không ai hiểu được sự im lặng của dân chúng Ai Cập và Libya
cả. Cả các cơ quan tình báo lớn nhất của Tây phương cũng không hiểu.
Cái không-thể-hiểu xin tạm thời bỏ qua. Chỉ xin tập trung vào câu hỏi
thứ hai: Tại sao vẫn có một số không ít người tiếp tục ủng hộ chính
quyền?
Chắc chắn, với một số rất đông, là vì quyền lợi. Trên một blog trong
nước, có người kể lại lời nói một số cựu chiến binh và thương binh: Mất
chế độ, người ta cũng sẽ mất luôn cả hưu bổng. Bảo vệ chế độ, do đó,
cũng là bảo vệ quyền lợi của chính họ. Đó là cách lập luận của những
người đã về hưu. Còn với những người đang tại chức, điều đó lại càng rõ.
Phương châm của Công an Việt Nam thể hiện rất rõ điều đó: “Còn Đảng còn
mình.” Mà không phải chỉ công an. Ở ngành nào cũng thế. Có đảng tịch là
có chức và có quyền. Có chức và có quyền là tự nhiên có tiền. Tiền như
mọc ra từ các tấm thẻ đảng. Lại là tiền nhiều nữa. Không làm gì cả cũng
có tiền. Tiền do người ta… cúng. Bảo vệ đảng, do đó, trở thành việc bảo
vệ kho bạc và kho vàng của chính mình.
Việc bảo vệ chính quyền vì quyền lợi của chính mình thời nào cũng có.
Chính phủ càng phi nghĩa và phi nhân, quyền lợi càng lớn; quyền lợi
càng lớn, sự bảo vệ càng tích cực. Tất cả những chuyện đó đều dễ hiểu.
Chúng ta chỉ bàn đến số người khác: Họ vẫn muốn bảo vệ chính quyền dù
họ không được hưởng quyền lợi gì trực tiếp từ chính quyền ấy cả. Người
ta gọi đó là lòng trung thành.
Một số học giả Tây phương cho lòng trung thành ấy là nguyên nhân
chính khiến chế độ cộng sản ở Việt Nam, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên vẫn
còn đứng vững sau khi toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Nga và Đông
Âu bị sụp đổ vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990. Người ta
cũng cho lòng trung thành ấy đã bén rễ sâu xa trong văn hóa và lịch sử
của cả ba nước, chủ yếu thông qua Nho giáo, một học thuyết lâu đời và có
ảnh hưởng cực lớn, vốn đề cao sự hòa thuận và đặc biệt, sự trung hiếu
đối với các bậc bề trên. Trong văn hóa Nho giáo, sự phản kháng không
phải chỉ có màu sắc chính trị mà còn được xem là thuộc phạm trù đạo đức:
Nó bị xem như một tội lỗi.
Thật ra, Nho giáo đề cao lòng trung thành nhưng lại không hề chủ
trương một thứ ngu trung. Mạnh Tử từng bảo với những bạo chúa như Kiệt
Trụ thì nên giết; giết chúng không phải là giết vua mà là giết những tên
thất phu. Điều đó có nghĩa là với những bậc thánh hiền trong Nho giáo,
có hai loại trung thành khác nhau: có loại trung thành chính đáng và có
loại trung thành sai lầm, hay thường gọi là ngu trung.
Trung như Lý Trần Quán đối với Trịnh Khải là ngu trung. Năm 1786, khi
Đoan Nam Vương Trịnh Khải bị Nguyễn Huệ đuổi chạy, cuối cùng, bị bắt,
phải tự tử. Để tỏ lòng trung, Lý Trần Quán đã sai mua quan tài và sai
người đem đi chôn sống. Ông không cần biết Trịnh Khải đã làm gì với vua
Lê và đã làm được gì cho đất nước. Ông cũng không cần biết Nguyễn Huệ là
ai; và giữa Nguyễn Huệ và Trịnh Khải, ai đang và sẽ đóng góp nhiều cho
đất nước hơn. Ông không cần biết. Ông chỉ cần biết Trịnh Khải là chủ của
ông. Ông không cứu được Trịnh Khải vậy ông phải chết. Đơn giản chỉ có
vậy.
Bây giờ hẳn sẽ không có ai sẵn sàng tuẫn tiết nếu nhà cầm quyền sụp
đổ như Lý Trần Quán ngày trước. Nhưng, với những mức độ khác nhau, một
thái độ ngu trung như vậy không phải là không có.
Ở thời nào ngu trung cũng có một số đặc điểm giống nhau:
Thứ nhất, người ta trung với cái danh của người lãnh đạo chứ không
phải với tư cách và hành động của người ấy. Trong sinh hoạt chính trị ở
Tây phương hiện nay, người ta cũng đề cao lòng trung thành, nhưng cội rễ
của sự trung thành ấy được xây dựng trên sự đồng thuận về chính sách
chứ không phải trên cá nhân hay huyền thoại của tổ chức. Ở Việt Nam,
ngược lại, khi nói đến “trung với đảng”, nhất là trong thời điểm hiện
nay, người ta lại gạt bỏ các chính sách của đảng mà chỉ tập trung vào
quá khứ hào hùng của một thời nào xa lắc, một quá khứ đẫm đầy màu sắc
huyền thoại.
Thứ hai, người ta xem biểu hiện chính, thậm chí, duy nhất của sự
trung thành là sự vâng phục tuyệt đối. Cấp trên nói đúng: nghe theo, đã
đành. Cấp trên nói sai rành rành, vẫn cứ nhắm mắt tuân theo. Cứ xem các
diễn văn và các lời lẽ tuyên truyền của chính phủ như Kinh Thánh. Cứ lặp
lại như vẹt chứ không có chút hoài nghi. Ở Tây phương, ngược lại, người
ta đề cao thứ trung thành kèm theo óc phê phán. Chỉ trung thành với
những cái đúng. Hơn nữa, chỉ trung thành khi dám lên tiếng phê phán
những cái sai của chính giới lãnh đạo của mình. Chính vì thế, không hiếm
người sẵn sàng lên tiếng chỉ trích đảng của họ. Hay chính phủ của họ.
Sự trung thành đối với cái đúng và đối với quyền lợi dân tộc được xem là
chính đáng và cao cả hơn hẳn sự trung thành đối với một cá nhân hay một
tổ chức.
Ở Việt Nam hiện nay, đồng lõa lớn nhất của cái ác và cái độc hại chính là những thứ ngu trung như thế.
TS Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment